Home » Cổ truyền, Văn hóa » Gia Cát Lượng tiên tri nhân loại sẽ tiến nhập vào nền văn minh mới (phần 2)
giải «Mã Tiền Khóa»

Nguyên tác giả: Thừa tướng Thục Hán Gia Cát Lượng

Nguyên người giải từ khóa 1 đến khóa 11: Mộc Tử

Nguyên người giải từ khóa 12 đến khóa 14: Minh Áo, Ánh Sáng

>> Gia Cát Lượng tiên tri nhân loại sẽ tiến nhập vào nền văn minh mới (phần 1)

 

 

 

 

 

 

第一课○●●●●○ 中下

无力回天 鞠躬尽瘁

阴居阳拂 八千女鬼

证曰:阳阴阴阴阴阳在卦为颐

解曰:诸葛卒後 後主 降于魏

Khóa 1 ○●●●●○ Trung Hạ

(Dấu chấm màu trắng là DƯƠNG, dấu chấm màu đen là ÂM)

Vô lực hồi thiên

Cúc cung tận tụy

Âm cư Dương phất

Bát thiên nữ quỷ

Tạm dịch:

Không sức đổi Trời

Còng mình gắng sức

Âm tồn Dương phất

Tám ngàn nữ quỷ

Chứng rằng: Dương Âm Âm Âm Âm Dương tại quẻ Di

Giải: “Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy” là nói bản thân Gia Cát Lượng, như ông viết trong «Xuất sư biểu»: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi“. “Âm cư Dương phất” chỉ hoạn quan Hoàng Hạo loạn quyền, Khương Duy chỉ có thể duy trì tàn cục chứ không thể làm gì được

Gia Cát chết rồi, sau chủ hàng Ngụy (sau khi Gia Cát Lượng chết, Thục Hán đầu hàng Ngụy). Chữ “Bát” (八) thêm chữ “thiên” (千) thêm chữ “nữ” (女) rồi thêm chữ “quỷ” (鬼), hợp thành một chữ “Ngụy” (魏).

第二课○●○○●○ 中下

火上有火 光烛中土

称名不正 江东有虎

证曰:阳阴阳阳阴阳在卦为离

解曰:司马炎篡魏 元帝都建康 建康属江东

Khóa 2 ○●○○●○ Trung Hạ

Hỏa thượng hữu hỏa

Quang chúc Trung Thổ

Xưng danh bất chính

Giang Đông hữu hổ

Tạm dịch:

Trên lửa có lửa

Rọi sáng Trung Thổ

Xưng danh bất chính

Giang Đông có hổ

Chứng rằng: Dương Âm Dương Dương Âm Dương tại quẻ Ly

Giải: “Hỏa thượng hữu hỏa”, trên “hỏa” (火) có “hỏa” (火) chính là chữ “Viêm” (炎). Chỉ Tư Mã Viêm lập nên triều Tấn. “Xưng danh bất chính” chỉ triều Tấn của Tư Mã Viêm thực chất là soán ngôi Tào Ngụy mà kiến lập, mà Tào Ngụy lại là soán ngôi triều Hán mà kiến lập, danh không chính ngôn không thuận. “Giang Đông hữu hổ” chỉ Đông Tấn thành lập, đóng đô tại Kiến Khang thuộc Giang Đông. “Hổ” chỉ Tư Mã Duệ.

第三课○●●●●● 下下

扰扰中原 山河无主

二三其位 羊终马始

证曰:阳阴阴阴阴阴在卦为剥

解曰:五 代始于司马终于杨氏

Khóa 3 ○●●●●● Hạ Hạ

Nhiễu nhiễu Trung Nguyên

Sơn hà vô chủ

Nhị tam kỳ vị

Dương chung Mã thủy

Tạm dịch:

Nhiễu loạn Trung Nguyên

Non sông không chủ

Hai ba vị ấy

Dê cùng Ngựa chạy

Chứng rằng: Dương Âm Âm Âm Âm Âm tại quẻ Bác

Giải: “Nhiễu nhiễu Trung Nguyên, Sơn hà vô chủ” miêu tả Trung Quốc vào thời loạn bát vương, ngũ hồ thập lục quốc và thời đại Nam-Bắc triều. “Nhị tam kỳ vị” (Hai ba vị ấy) chỉ một số Đế vương chỉ tại vị trong một thời gian rất ngắn. “Dương chung mã thủy” (Dê cùng ngựa chạy) chỉ đại loạn khởi từ gia tộc nhà Tư “Mã” {ngựa}, kết thúc là “Dương” Kiên kiến lập triều Tùy. Họ “Dương” (杨) với chữ “dương” {dê} (羊) là đồng âm.

第四课●●○●○● 中上

十八男儿 起于太原

动则得解 日月丽天

证曰:阴阴阳阴阳阴在卦为解

解曰:唐 太宗起兵太原

Khóa 4 ●●○●○● Trung Thượng

Thập bát nam nhi

Khởi vu Thái Nguyên

Động tắc đắc giải

Nhật nguyệt lệ thiên

Tạm dịch:

Mười tám nam nhi

Khởi từ Thái Nguyên

Động ắt được giải

Nhật nguyệt tươi đẹp

Chứng rằng: Âm Âm Dương Âm Dương Âm tại quẻ Giải

Giải: “Thập bát nam nhi” là “thập bát tử”, “thập bát tử” (十八子) hợp thành chữ “Lý” (李). Chỉ thời Tùy mạt, Lý Uyên khởi binh từ Thái Nguyên. “Động tắc đắc giải” ý nói Lý Uyên khởi binh là đường sinh, không phải đường tử. “Nhật nguyệt tươi đẹp” chỉ văn minh Đại Đường sáng lạn.

第五课○○○●●● 下中

五十年中 其数有八

小人道长 生灵荼毒

证曰:阳阳阳阴阴阴在卦为否

解曰: 後五代八姓共五十三年

Khóa 5 ○○○●●● Hạ Trung

Ngũ thập niên trung

Kỳ số hữu bát

Tiểu nhân đạo trường

Sinh linh đồ độc

Tạm dịch:

Trong năm thập niên

Số ấy có tám

Tiểu nhân đường dài

Sinh linh tàn hại

Chứng rằng: Dương Dương Dương Âm Âm Âm tại quẻ Phủ

Giải: 53 năm sau triều Đại Đường, Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu cùng xưng là “Ngũ Đại”. Thời “Ngũ Đại” tổng cộng có 8 họ người được xưng là Hoàng đế, ứng với “Số ấy có tám”. Thạch Kính Đường tự xưng là Hoàng đế với Khiết Đan, ứng với câu “Tiểu nhân đường dài”.

第六课●○○●○○ 上中

惟天生水 顺天应人

刚中柔外 土乃生金

证曰:阴阳阳阴阳阳在卦为兑

解曰:赵 宋聿兴天下化成金兵入寇 是刚中柔外之象

Khóa 6 ●○○●○○ Thượng Trung

Duy thiên sinh thủy

Thuận thiên ứng nhân

Cương trung nhu ngoại

Thổ nãi sinh Kim

Tạm dịch:

Chỉ Trời sinh Thủy

Thuận Trời hợp người

Trong cứng ngoài mềm

Thổ ấy sinh Kim

Chứng rằng: Âm Dương Dương Âm Dương Dương tại quẻ Đoài

Giải: Triều Tống thực hành nền chính trị nhân từ, thuộc tính “Thủy”. Thổ khắc Thủy, như vậy triều Kim sinh ra từ Thổ chính là khắc tinh của triều Tống. “Thổ nãi sinh Kim”, “Kim” chỉ nước Kim, kẻ thù không đội trời chung của triều Tống. Chính sách nội ngoại của triều Tống có thể dùng “trong cứng ngoài mềm” để hình dung.

第七课●○●○○● 中中

一元复始 以刚处中

五五相传 尔西我东

证曰:阴阳阴阳阳阴在卦为井

解曰:有 元一代凡十世 至正以後割据者众 有尔西我东之象

Khóa 7 ●○●○○● Trung Trung

Nhất Nguyên phục Thủy

Dĩ cương xử trung

Ngũ ngũ tương truyền

Nhĩ Tây ngã Đông

Tạm dịch:

Một nguyên về đầu

Lấy cứng đặt giữa

Năm năm tương truyền

Ngươi Tây ta Đông

Chứng rằng: Âm Dương Âm Dương Dương Âm tại quẻ Tỉnh

Giải: “Nhất nguyên phục thủy” (Một nguyên về đầu) chỉ triều Nguyên kiến lập. “Dĩ cương xử trung” (Lấy cứng đặt giữa) chỉ người Mông Cổ thống trị cực kỳ hà khắc với người Hán. “Ngũ ngũ tương truyền” là chỉ triều Nguyên tổng cộng có 10 (=5+5) vị Hoàng đế. “Nhĩ Tây ngã Đông” chính là nói người Mông Cổ phân thành các Hãn quốc

第八课○○●●●○ 上上

日月丽天 其色若赤

绵绵延延 凡十六叶

证曰:阳阳阴阴阴阳在卦为益

解曰:日 月为明 赤者朱 有明一代凡十六主

Khóa 8 ○○●●●○ Thượng Thượng

Nhật nguyệt lệ thiên

Kỳ sắc nhược xích

Miên miên diên diên

Phàm thập lục diệp

Tạm dịch:

Nhật nguyệt tươi đẹp

Sắc ấy như đỏ

Kéo dài liên miên

Gồm mười sáu lá

Chứng rằng: Dương Dương Âm Âm Âm Dương tại quẻ Ích

Giải: “Nhật nguyệt tươi đẹp”, chữ “nhật” (日) ghép với chữ “nguyệt” (月) chính là chữ “Minh” (明), chỉ triều Minh. “Sắc ấy như đỏ”, đỏ là “chu”, chỉ họ “Chu” (朱). “Kéo dài liên miên, Gồm mười sáu lá”, ý nói triều Minh có tổng cộng 16 đời Hoàng đế.

第九课○●○●●● 中上

水月有主 古月为君

十传绝统 相敬若宾

证曰:阳阴阳阴阴阴在卦为晋

解曰:水月有主清也 古月胡也 胡人为君 殆亦天数 不可强欤 老僧生于嘉靖十年今年八十有六过此以后不敢妄议

Khóa 9 ○●○●●● Trung Thượng

Thủy nguyệt hữu chủ

Cổ nguyệt vi quân

Thập truyền tuyệt Thống

Tương kính nhược tân

Tạm dịch:

Nước trăng có chủ

Trăng cổ làm Vua

Truyền mười tuyệt sạch

Kính nhau như khách

Chứng rằng: Dương Âm Dương Âm Âm Âm tại quẻ Tấn

Giải: “Thủy nguyệt hữu chủ”, ba điểm Thủy (氵) cộng thêm “nguyệt” (月) rồi thêm “chủ” (主) hợp thành một chữ “Thanh” (清). “Cổ nguyệt vi quân”, “cổ nguyệt” (古月) chính là chữ “Hồ” (胡), chỉ triều Thanh do người dân tộc thiểu số (Hồ nhân) kiến lập. “Thập truyền tuyệt thống” ý nói triều Thanh từ khi nhập quan truyền được 10 đời Hoàng đế, cuối cùng là Tuyên Thống. “Tương kính nhược tân” (Kính nhau như khách) là chính phủ Quốc Dân ưu đãi các thành viên vương tộc nhà Thanh.

第十课●○●○●● 中下

豕後牛前 千人一口

五二倒置 朋来无咎

证曰:阴阳阴阳阴阴在卦为蹇

Khóa 10 ●○●○●● Trung Hạ

Thỉ hậu ngưu tiền

Thiên nhân nhất khẩu

Ngũ nhị đảo trí

Bằng lai vô cữu

Tạm dịch:

Lợn sau trâu trước

Nghìn người một miệng

Năm hai đảo ngược

Bạn đến không trách

Chứng rằng: Âm Dương Âm Dương Âm Âm tại quẻ Kiển

Khóa này chính là dự ngôn Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1911, người của Đồng Minh Hội Cách Mạng Đảng tại các nơi phát động khởi nghĩa vũ trang, triều Đại Thanh bốn bề khốn đốn, lung lay sắp đổ. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Chính phủ Cộng hòa thành lập tại Nam Kinh, Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng thống lâm thời. Ngày 13 tháng 2, Hoàng đế nhà Thanh chính thức thoái vị, Vương triều Đại Thanh kết thúc. “Thỉ hậu ngưu tiền” – “Lợn sau trâu trước” chính là chỉ sự kiện này: Năm 1911 là năm Tân Hợi, cũng là năm con lợn, “thỉ” chỉ “lợn”; năm 1913 là năm con trâu, do đó năm 1912 Hoàng đế nhà Thanh thoái vị và Chính phủ Cộng hòa thành lập, chính là năm “lợn sau trâu trước” (giữa năm lợn và năm trâu).

“Thiên nhân nhất khẩu” – “Nghìn người một miệng” là câu đố chữ, “Thiên, nhân, khẩu” (千人口) ba chữ hợp lại thành chữ “hòa” (和) trong “Cộng hòa”. Trung Hoa Dân Quốc là nước Cộng hòa, phổ biến chế độ dân chủ.

“Ngũ nhị đảo trí” – “Năm hai đảo ngược”, “Ngũ” và “nhị” ở đây là thuật ngữ trong Kinh Dịch, với một quẻ Lục Họa, tổng cộng có sáu hào, theo đó mà phân biệt gọi là “nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục”, trong đó hào số năm là tôn vị, đại biểu cho ngôi Vua, hào số hai là thần vị, trên ngôi Vua, dưới bề tôi, chính là trật tự bình thường. “Ngũ nhị đảo trí” chính là Vua tôi đảo lộn. Chế độ và chính thể một nước Cộng hòa chính là như vậy, trong nước Cộng hòa hết thảy quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nguyên thủ Quốc gia nước Cộng hòa gọi là Tổng thống, Tổng thống là do dân bầu, nhân dân bất mãn thì có thể hài tội, đúng là trái ngược với một quốc gia Quân chủ chuyên chế. Vua trong quá khứ được coi là bậc “Cửu ngũ chí tôn”, Gia Cát Lượng dùng “Ngũ nhị đảo trí” để miêu tả hết thảy điều này.

“Bằng lai vô cữu” – “Bạn đến không trách” là chỉ trong thời gian Trung Hoa Dân Quốc thống trị Đại Lục, bởi vì hèn yếu lâu ngày, nên khi Dân Quốc khai sáng bị quốc tế bắt nạt, Nhật Bản xâm lược, nhưng cuối cùng không bị tổn thương gì.

第十一课○●○○●○ 中下

四门乍辟 突如其来

晨鸡一声 其道大衰

证曰:阳阴阳阳阴阳在卦为离

Khóa 11 ○●○○●○ Trung Hạ

Tứ môn sạ tích

Đột như kỳ lai

Thần kê nhất thanh

Kỳ đạo đại suy

Tạm dịch:

Bốn cửa mở toang

Thình lình đột ngột

Tiếng gà gáy sớm

Đạo này đại suy

Chứng rằng: Dương Âm Dương Dương Âm Dương tại quẻ Ly

“Bốn cửa mở toang” chính là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản bất ngờ được thiên hạ, văn hóa truyền thống 5.000 năm bị phá hoại. “Tiếng gà gáy sớm, Đạo này đại suy”, chỉ năm Dậu {gà} 2005, «Cửu bình cộng sản đảng» phát hành, dân chúng đua nhau thoái đảng, thế đảng bắt đầu suy bại. (Xem bài: Chín bài bình luận về ĐCSTQ mở ra tương lai cho Trung Quốc)

第十二课●○○○○● 上中

拯患救难 是唯圣人

阳复而治 晦极生明

证曰:阴阳阳阳阳阴在卦为大过

Khóa 12 ●○○○○● Thượng Trung

Chửng hoạn cứu nạn

Thị duy Thánh nhân

Dương phục nhi trị

Hối cực sinh minh

Tạm dịch:

Cứu họa cứu nạn

Duy có Thánh nhân

Dương phục mà trị

Đêm hết ngày rạng

Chứng rằng: Âm Dương Dương Dương Dương Âm tại quẻ Đại Quá

Nói đến “Cứu họa cứu nạn, Duy có Thánh nhân”, thì phải đề cập đến vấn đề đã nói ở trước, chính là rất nhiều dự ngôn Trung Quốc đều nói rằng có Thánh nhân xuất hiện, rồi nhân loại trải qua hết ma nạn khủng bố thì sẽ tiến nhập vào thời thái bình thịnh thế, thế giới đại đồng, v.v. các dự ngôn đến đó là kết thúc.

Vậy Thánh nhân đó là ai, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói rằng khi hoa ưu đàm khai nở đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ đến hạ thế độ nhân (xem bài: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói về Hoa Ưu Đàm và Đức Chuyển Luân Thánh Vương). Trong lời Sấm của mình Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết “phá điền Thiên Tử giáng trần” chữ Điền nếu phá đi 4 góc thì thành chữ Vạn của nhà Phật. Trong dự ngôn của phương tây có nói về sự xuất hiện của Messiah, phương đông có nói về đức Phật Di Lặc thực ra cả 2 vị này đề là một (xem bài: Phật Di Lặc và Messiah: Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp (Phần 1), Phật Di Lặc và Messiah: Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp (Phần 2)).Và các lời tiên tri đều cho thấy rằng Đức Chuyển Luân Thánh Vương mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tới, “Thiên Tử” trong lời Sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Messiah, đức Phật Di Lặc đều chỉ là một người đó chính là Thánh Nhân mà Gia Cát Lượng đề cập đến

Đức Thánh Nhân cùng các đệ tử của ngài bị đàn áp khủng bố thật dã man, còn hơn cả La Mã đàn áp Cơ đốc giáo thửa xưa, hơn cả nhưng ma nạn mà Phật Giáo trải qua. Nói về mức độ của ma nạn khủng bố thì các dự ngôn có miêu tả khác nhau, trong «Cách Am Di Lục», «Khải Huyền» của «Thánh Kinh» là rõ ràng tỉ mỉ phi thường, tuy nhiên «Mã Tiền Khóa» chỉ dùng có bốn chữ (“Chửng hoạn cứu nan” – “Cứu họa cứu nạn”), đủ để biểu lộ mức độ nghiêm trọng của tai họa!

Hai câu sau “Dương phục nhi trị, Hối cực sinh minh” – “Dương phục mà trị, Đêm hết ngày rạng”, có ý vật cực tất phản. Dự ngôn người Maya nói rằng từ năm 1992 đến 2012 là chu kỳ tối hậu của hệ mặt trời, trong đó hết thảy đều đối diện với tịnh hóa và canh tân, tiếp đó nhân loại mới có thể tiến nhập vào kỷ nguyên mới (Xem bài: Dự ngôn của lịch pháp người Maya: Năm 2012 nhân loại sẽ đi hướng về một nền văn minh hoàn toàn mới). «Thôi Bối Đồ» Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong có câu “Càn khôn tái tạo tại Giác Cang”, là chỉ cùng một sự kiện, “Giác Cang” chỉ rồng, năm 2012 chính là năm con rồng, nếu như không phải trùng hợp, thì đây nhất định là sự kiện mang phạm vi toàn cầu, có lẽ rất nhiều dự ngôn chính là nói rằng thời thịnh thế đã đến rồi!

Dù Thánh Nhân cùng các đệ tử của ông bị đàn áp nặng nề nhưng trước sau kiên trì hòa bình lý tính, trước sau dùng cái Thiện để giải thể nó, khiến sự thật càng ngày càng minh hiển, cái tà ác sẽ giải thể triệt để, khi sự thật được sáng tỏ, Pháp của đức Thánh được nhiều người nhận biết lúc đó chẳng phải chính là “Dương phục mà trị, Đêm hết ngày rạng” hay sao?

Đương nhiên, lịch sử vẫn còn một đoạn thời gian mới đến lúc ấy, đối với lời giải thích của dự ngôn này nhất định là mỗi người một ý. Nhưng xin chúng ta hãy nhìn lại sự phát triển lịch sử, ngày mà chân tướng đại hiển đã không còn xa nữa rồi. Trong Kinh Thánh có nói về “ngày phán xét”, nếu có ngày phán xét này chính là phán xét những kẻ tà ác tham gia bức hại đức Thánh Nhân cùng các đệ tử của ngài. Đó cũng là lúc mà đại nạn của nhân loại đến, người ta vẫn hay nói là nhân loại ngày nay có nạn lớn, có “ngày tận thế” thực ra các dự ngôn đều không hề nói có ngày tận thế ấy, mà là nhân loại sẽ có nạn lớn do đạo đức đã suy đồi nghiêm trọng, những người đạo đức đã suy đồi không thể hồi tỉnh, những kẻ tà ác vẫn bức hại Đức Thánh Nhân cùng đệ tử của ngài đều sẽ bị hủy diệt trong đại nạn này, những người còn lại vẫn còn giữ được chuẩn mực đạo đức nhất định trong tâm sẽ vượt qua đại nạn và tiến nhập vào nền văn minh mới

Những số lượng người bị diệt trong đại nạn này là vô cùng nhiều, tương lại ngoảnh lại nhìn, thì người ta đều không dùng từ “thảm họa” hay “đại nạn”, hay “tận thế” mà chính là “đại đào thải” tức người xấu thì bị hủy diệt, người tốt được lưu lại. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiểm tiên tri rằng:

Mười phần chết bảy còn ba

Mất hai còn một mới ra thái bình

Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều lần đạo đức của nhân loại đã trượt dốc đến một mức độ đáng sợ và lại phải đối mặt với thảm họa. Trận đại hồng thủy trong quá khứ hầu như đã quét sạch toàn bộ thế giới. Hai nghìn năm trước, đế chế La Mã đã bức hại tàn khốc các tín đồ Cơ Đốc, một chuỗi dịch bệnh đã lần lượt giết chết gần một nửa dân số. Thật đáng buồn thay, lịch sử dường như đang lặp lại. Ngày nay, giá trị đạo đức nhân loại lại một lần nữa trượt dốc đến một mức độ nguy hiểm. Nhiều tôn giáo có nói rằng, trong “Phán Xét Cuối Cùng”, Thần sẽ lại xuất hiện để đưa người tốt lên thiên giới và đày kẻ xấu xuống địa ngục. “Thiện ác hữu báo” là phép tắc vĩnh hằng bất biến của vũ trụ. (falunart.org)

第十三课○●●○○○ 上中

贤不遗野 天下一家

无名无德 光耀中华

证曰:阳阴阴阳阳阳在卦为大畜

Khóa 13 ○●●○○○ Thượng Trung

Hiền bất di dã

Thiên hạ nhất gia

Vô danh vô đức

Quang diệu Trung Hoa

Tạm dịch:

Hiền không rơi mất

Thiên hạ một nhà

Không danh không đức

Chói lọi Trung Hoa

Khóa 12 «Mã Tiền Khóa» đã dự ngôn về sự giao thời giữa thời đại cũ và mới, còn Khóa 13 này nói về những sự việc sau khi tiến nhập vào tân kỷ nguyên.

“Hiền bất di dã, Thiên hạ nhất gia” – “Hiền không rơi mất, Thiên hạ một nhà”, như người ta thường nói, tiến về thịnh thế, chính là cảnh tượng tân thế kỷ. Dự ngôn trong Khóa này và Tượng 59 «Thôi Bối Đồ» không hẹn mà trùng. Tượng 59 «Thôi Bối Đồ» có sấm rằng: “Vô thành vô phủ, Vô nhĩ vô ngã, Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa”, là nói sau khi trải qua bài học giáo huấn nghiêm khắc trong lịch sử này, đạo đức nhân loại khắp nơi thăng tiến, con người không còn mưu tính lẫn nhau nữa, mà yêu thương lẫn nhau. Câu tiếp “Vô danh vô đức” là nói con người đều hành Thiện xuất phát từ nội tâm, yêu thương lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau, tình thân như huynh đệ, không còn vì danh lợi ích kỷ nữa. Quá khứ Đạo gia giảng “thượng đức bất đức”, cùng với “Vô danh vô đức” thật đồng điệu.

“Quang diệu Trung Hoa” là nói thiên hạ một nhà, hiền không rơi mất, vạn vật tân sinh đến với Trung Quốc Đông Thổ, văn hóa Trung Hoa vì thế mà hưng thịnh. Có nhà dự ngôn cận đại nói rằng Trung Quốc một ngày nào đó sẽ trở thành nơi phát nguyên tín ngưỡng của toàn thế giới, bởi vì Trung Quốc mang theo một chủng tín ngưỡng đối với Thần Phật, Trung Quốc trở thành cái nôi tín ngưỡng của toàn nhân loại, cũng rất trùng hợp với câu “Quang diệu Trung Hoa” vậy.

Lại xem lại Tượng 59 «Thôi Bối Đồ» tụng viết: “Nhất nhân vi đại thế giới phúc, Thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc, Hồng hoàng hắc bạch bất phân minh, Đông Nam Tây Bắc tận hòa mục”, “Nhất nhân vi đại” (Một người là lớn) ở đây ứng với Thánh nhân được nói ở trên. Ngài mang đến ánh sáng cho toàn thế giới, các nhân chủng (Hồng, hoàng, hắc, bạch – da đỏ, da vàng, da đen, da trắng), quốc gia, dân tộc (Đông Nam Tây Bắc) xóa hết mâu thuẫn ngăn cách, thế giới hòa bình.

Đến lúc này, sự tình đã phi thường minh hiển, đó chính Đức Thánh Nhân cùng các đệ tử của ngài sau khi trải qua khảo nghiệm tối tà ác, Pháp của ngài được nhiều người biết đến, được toàn thế giới thấu hiểu và chấp nhận, từ đó con người tự giác hướng Thiện, người người đều hướng vào nội tâm mà tu, ai ai cũng đều hướng vào nội tâm mà tìm. Chuẩn mực đạo đức xã hội đề cao rất nhanh, ngay cả cảnh sát cũng không cần nữa, thiên hạ tiến nhập vào xã hội đại đồng chân chính, thế giới chân chính hưởng cảnh thái bình. Pháp của ngài sau khi truyền đến các nước đã khiến người ta thấy một xu thế, nơi nào chấp nhận Pháp này, đạo đức và nhân tâm nơi ấy sẽ hướng Thiện, sự ổn định và trị an sẽ chuyển biến theo hướng tốt đẹp, mọi người đều gia tăng phúc phận.

第十四课○●○●○● 中下

占得此课 易数乃终

前古后今 其道无穷

证曰:阳阴阳阴阳阴在卦为未济

Khóa 14 ○●○●○● Trung Hạ

Chiêm đắc thử khóa

Dịch số nãi chung

Tiền cổ hậu kim

Kỳ Đạo vô cùng

Tạm dịch:

Bói được quẻ này

Dịch số đã hết

Trước cũ sau mới

Đạo ấy vô cùng

Chứng rằng: Dương Âm Dương Âm Dương Âm tại quẻ Vị Tế

Khóa này nói rằng, xem bói bốc được quẻ này, dự ngôn đã đến chỗ kết thúc rồi. Viết rằng “Bói được quẻ này, Dịch số đã hết”. Cũng tương ứng với «Thôi Bối Đồ», tại Tượng 60 tụng rằng: “Mang mang thiên số thử trung cầu, Thế Đạo hưng suy bất tự do, Vạn vạn thiên thiên thuyết bất tận, Bất như thôi bối khứ quy hưu”. Đều cùng một ý, nói rằng hết thảy đều có định số, đều có an bài. “Trước cũ sau mới”, ấy là “Đạo” bất biến, là phép tắc vĩnh viễn bất biến của vũ trụ, vậy mới viết rằng “Trước cũ sau mới, Đạo ấy vô cùng”. Trong Tượng 60 «Thôi Bối Đồ» cũng có sấm tương tự: “Nhất Âm nhất Dương, Vô thủy vô chung, Chung giả tự chung, Thủy giả tự thủy”. Cổ nhân nói: “Một Âm một Dương ấy là Đạo”, trong sấm “Nhất Âm nhất Dương” cũng là chỉ “Đạo”, là “vô thủy vô chung”, là trường tồn. Người ta thường nói thiện ác hữu báo, có thể chính là ý “Chung giả tự chung, Thủy giả tự thủy” – “Người cuối ngày cuối, Người đầu từ đầu” vậy.

Tại Tây phương, nhà tiên tri trứ danh Nostradamus trong «Các Thế Kỷ» cũng có một đoạn như thế này:

Khi hai mươi năm sự thống trị của Mặt trăng qua đi

Một vật thể khác sẽ tiếp nhận sự thống trị trong bảy ngàn năm.

Khi Mặt trời đã mệt mỏi rã rời tiếp tục chu kỳ vận chuyển

Là lúc lời tiên tri và đe dọa này đi đến hồi kết.

Những dự ngôn này đều nói rõ rằng, toàn bộ thế giới đến lúc ấy sẽ đổi mới hoàn toàn, thời đại cũ trở thành dĩ vãng, thời đại hoàn toàn mới sẽ bắt đầu. Những ai không giữ được chuẩn mực đạo đức trong tâm đã bị hủy diệt trong đại nạn của nhân loại rồi, những người thiện lương chúng ta có thể chuyển sang thời đại văn minh mới! Cả người giải và người dịch dự ngôn này xin chúc lời chúc tốt đẹp nhất cho con người trên toàn thế giới.

Biên dịch: Chánh Kiến

Chuyên đề: ,

01 ý kiến dành cho “Gia Cát Lượng tiên tri nhân loại sẽ tiến nhập vào nền văn minh mới (phần 2)”

  1. Hay nhỉ, Nhưng toàn nói sau khi mọi sự đã xảy ra rồi,
    Châu chấu cố xoay vòng xe, tới bao giờ mới quay được..

    Reply

Ý kiến bạn đọc