Home » Cổ truyền, Văn hóa » “Trạng nguyên” chưa phải danh giá nhất, câu chuyện về “Tam nguyên Trạng nguyên” đầu tiên trong sử Việt

Qua lịch sử các kỳ thi khoa bảng trước đây, mỗi khoa thi có 3 kỳ thi là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Các sĩ tử vượt qua thi Hương sẽ vào thi Hội, vượt qua thi Hội mới vào đến thi Đình. Sĩ tử đứng đầu thi Hương là đậu Giải nguyên, đứng đầu thi Hội là đậu Hội nguyên

Tại kỳ thi Đình sĩ tử phải vừa đỗ đầu đồng thời phải đạt điểm cao tuyệt đối mới được xem là Trạng Nguyên. Chính vì thế mà trong lịch sử khoa bảng, các khoa thi về sau này không có Trạng nguyên vì dù đỗ đầu nhưng không đạt điểm cao tuyệt đối.

Sĩ tử đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình được gọi là Tam Nguyên; sĩ tử đỗ đầu 3 kỳ thi đồng thời thi Đình đỗ Trạng nguyên thì được gọi là Tam nguyên Trạng nguyên 

Như vậy danh hiệu Trạng Nguyên chưa phải là danh hiệu cao quý nhất, mà danh hiệu cao quý nhất trong khoa bảng ngày xưa là Tam nguyên Trạng nguyên

Trong lịch sử khoa bảng chỉ có rất ít người đạt được danh hiệu cao quý nhất là Tam nguyên, người đầu tiên đạt được danh hiệu này là Nguyễn Quán Quang.

Từ cậu bé học lỏm đến Tam nguyên

Nguyễn Quán Quang lúc nhỏ có tên là Nguyễn Quan Quang, sinh ra ở xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

Sinh ra trong gia đình nghèo khó, bữa đói bữa no nên gia đình không thể có tiền cho Nguyễn Quan Quang ăn học.

Chính vì thế chú bé này vẫn hay la cà ngoài lớp học lắng nghe các trò đọc “tam tự kinh”, nhìn qua cửa học lỏm chữ rồi dùng gạch non viết xuống nền sân.

Dù không có thẻ tre và bút, nhưng nét chữ bằng gạch non viết xuống nền sân rất rõ ràng và đẹp. Một lần tan học, thầy đồ ra ngoài sân thì thấy có nhiều chữ viết như rồng bay phượng múa.

Biết được người viết những chữ náy là cậu bé vẫn la cà ở ngoài lớp học, thầy đồ kinh ngạc nói rằng “đây mới chính là trò giỏi”. Rồi thầy cho gọi Quan Quang vào lớp và thu nhận làm học trò.

Thầy nhận dạy Nguyễn Quan Quang. (Ảnh từ kienthuc.net.vn)

Thầy nhận dạy Nguyễn Quan Quang. (Ảnh từ kienthuc.net.vn)

Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười, chẳng bao lâu mà đã thông kinh, thuộc sử, ứng khẩu thành thơ.

Lớn lên ông đăng ký khoa thi năm Bính ngọ 1246 đời vua Trần Thái Tông. Với tài năng vượt trội của mình Nguyễn Quan Quang đỗ cả Giải nguyên, Hội nguyên và Trạng nguyên tức đỗ Tam nguyên. Trở thành Tam nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa bảng.

Người dân thời đấy đều gọi ông là “ông Tam nguyên”, và gọi tên ông là Quán Quang.

Sau khi vinh quy bái tổ, Nguyễn Quán Quang được vào Triều làm quan. Vua Thái Tông thấy ông có dáng người cao lớn, lại có khí phách hơn người nên rất quý mên, ban quốc tính cho ông, gọi là Trần Quán Quang.

Thể hiện khí phách Đại Việt trước đại quân Mông Cổ

Lúc này vó ngựa quân Mông Cổ đang giày xéo đất Tống và lăm le muốn tràn sang Đại Việt, Vua cử Quán Quang đi thương nghị.

Viên tướng Mông Cổ muốn thể hiện sức mạnh nước mình để áp chế ông, nên nhân lúc đi qua một ao bèo bèn vớt một cây bèo lên rồi bóp nát trong tay.

Nguyễn Quán Quang

Tranh minh họa từ Báo Bình Phước

Quán Quang hiểu ý viên tướng muốn nói Đại Việt như như bèo, Mông Cổ có thể bóp nát trong tay. Quán Quang bèn nhặt một hòn đá to rồi ném xuống, bèo liền dạt ra tạo thành khoảng trống rồi nhanh chóng các cánh bèo tụ lại kín ao, viên tướng Mông Cổ hiểu ý ông muốn nói là người Việt có sức mạnh đoàn kết, không sức mạnh nào có thể khuất phục được.

Vì Đại Việt không tỏ ý khuất phục Mông Cổ nên phải đợi đến năm 1258, sau khi đánh bại Đại Lý, quân Mông Cổ mới có bàn đạp tiến đánh Đại Việt.

Trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất, Trần Quán Quang có nhiều đóng góp nên được Vua phong cho làm Bộc Xạ (chức quan chỉ sau Tể Tướng). Ông làm quan rất thanh liêm, hết lòng vì Giang Sơn Xã Tắc.

Về quê khai sáng học việc tại quê nhà

Khi về già ông về quê mở lớp dạy học, nhớ lại thuở xưa gia cảnh nghèo khó phải học lỏm ngoài cửa, nên ông rất yêu quý trẻ nghèo hiếu học, cuộc sống của ông rất thanh đạm. Người dân Tam Sơn cho rằng: ông là người khai sáng việc học của quê hương, mở đường cho đất Ba Gò sau này có một “kho nhân tài”.

Sau khi ông mất, người dân nhớ đến cảnh ông sống đạm bạc như người tu hành, nên dựng một ngôi chùa để tưởng nhớ đến ông, gọi là chùa Linh Khánh. Ngôi chùa này đến nay đã không còn nữa, nhưng vẫn còn cây hương tạc bằng đá vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Nội dung ghi trên bia nói về công đức của ông đối với dân làng.

Người dân cũng lập đền thờ ông trên núi Viềng, phong ông làm Thành Hoàng và gọi là “Đại vương Phúc Thần”. Triều đình cũng phong cho ông là Đại Tư Không.

Hàng năm cứ vào ngày 22 tháng chạp âm lịch, dân làng lại tổ chức “tế phong mã” để tưởng nhớ đến ông.

Trần Hưng

Theo trithucvn.net

Chuyên đề:

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc