Home » Cổ truyền, Tiêu Điểm, Văn hóa » Từ chàng trai vượt tường đột nhập dinh phủ của mỹ nữ đến lưỡng quốc trạng nguyên lừng danh sử sách

Câu chuyện này có liên quan đến dòng họ Nguyễn Đăng nổi tiếng ở vùng Kinh Bắc, nhiều đời đều có người đỗ đại làm quan to trong triều.

Trường THPT Nguyễn Đăng Đạo ở Bắc Ninh. (Ảnh bacninh.edu.vn)

Trường THPT Nguyễn Đăng Đạo ở Bắc Ninh. (Ảnh bacninh.edu.vn)

Dòng dõi gia đình khoa bảng nổi tiếng

Theo ghi chép từ gia phả của dòng họ này thì: “ Dòng họ Nguyễn Đăng trước sau có lịch sử 600 năm, bốn vị tổ ban đầu đều dạy học, đời thứ năm trở đi bước vào thời kỳ khoa bảng, kể từ năm 1443 đến năm 1918 trong khoảng 475 năm có 91 người đỗ đạt, trong đó 6 tiến sĩ, thám hoa và trạng nguyên, 7 giám sinh, 25 hiệu sinh, 2 tú tài, 5 thiếu khanh, tổng giáo và huyện thừa.”

Đây là dòng họ thuộc “tứ gia vọng tộc” tức là bốn dòng họ nổi danh khoa bảng và hiển đạt của đất Kinh Bắc

Nhiều người học giỏi, dù không đỗ đại khoa nhưng vẫn được giữ chức quan cao trong triều , như Nguyễn Đăng Cảo đỗ Thám Hoa năm 1683 àm quan ở Hàn lâm viện đến chức Đô ngự sử, lại có tài ứng đối bang giao làm cho sứ nhà Thanh phải nhiều phen kinh ngạc và thán phục.

Em trai Nguyễn Đăng Cảo là Nguyễn Đăng Minh năm 16 tuổi trúng sinh đồ, 22 tuổi đỗ tiến sĩ , làm quan đến chứ Tế tửu ở trường Quốc Tử Giám.

Nhà thờ họ Nguyễn Đăng. (Ảnh languudiem.com)

Nhà thờ họ Nguyễn Đăng. (Ảnh languudiem.com)

Ông Nguyễn Đăng Minh sinh ra Nguyễn Đăng Đạo vào năm 1651 ở làng Hoài Bão (tên nôm là làng Bịu), huyện Tiên Du, vùng đất trù phú của đất Kinh Bắc xưa kia; nơi đây đồi núi nhấp nhô xem lẫn với những cánh đồng lúa bát ngát đẹp như tranh vẽ cùng những câu chuyện dân gian được truyền tụng hết đời này đến đời khác.

Tương truyền khi phu nhân Ngọc Nhĩ có thai, một đêm vào mùa hạ trăng sáng, bà ra giếng lấy nước, chợt có một ngôi sao sáng lấp lánh rơi vào thùng nước, bà bèn mang thùng nước về dùng, sau đó sinh ra Đăng Đạo.

Năm Đăng Đạo được 3,4 tuổi được người bác là Thám Hoa Nguyễn Đăng Cảo đưa đi theo cùng khi đón tiếp sứ Trung Hoa. Sứ nhà Thanh vốn là người giỏi xem tướng, nhìn Đăng Đạo đã nói rằng: “Thiên sơn vạn thủy, lam chướng bất xâm, chơn kỳ đồng dã” (tức là: Dặm ngàn non nước mà lam chướng không xâm phạm nổi, thì cũng là đứa trẻ quá lạ). 

Khi Đăng Đạo lên 6 tuổi thì được gia đình cho đi học, ngay những ngày đầu cậu bé này đã cho thấy sự thông minh và tư chất hơn người. Đường đi học phải qua Cầu Trợ tục gọi là Cầu Giếng, những hôm trời rét đậm Đăng Đạo phải vào Cầu trú chân cho đỡ rét. Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện quan huyện Tiên Du đi qua cầu đúng lúc Đăng Đạo đang nằm trong cầu cho đỡ rét mà không dậy chào, quan liền quát hỏi thì được biết đây là học trò trong huyện, quan liền bắt phải làm một bài thơ mô tả cảnh trời rét.

Đăng Đạo liền ứng khẩu rằng:

Vi vu gió thổi, bụi lầm đường,

Rét phải nằm co, há phải cuồng!

Cá chửa giương vây miền Bắc Hải,

Rồng còn cuộn khúc bãi Nam Dương.

Cất đầu ngón đợi kiền khôn đế,

Uốn gối mong chầu cảnh thổ vương,

Bĩ hệ cực rồi, rồi đến thái,

Sang xuân đầm ấm lại nghênh ngang

Quan nghe thấy có khẩu khí liên tha cho.

dui-mai-kinh-su

Dùi mài kinh sử

Nhân duyên với vị thiền sư nổi tiếng

Trên đường đi học, Đăng Đạo cũng hay qua chùa Phật Tích nằm trên núi Lạn Kha, do vua Anh Tông nhà Lý dựng lên, thời đấy chùa do làm thiền sư Chuyết Công làm trụ trì, ông được biết đến là người từng đi thuyền vượt biển chở hơn ba vạn quyển kinh Tam Tạng sang nước Nam.

Thiền sư Chuyết Công rất yêu quý Đăng Đạo, mỗi lần cậu bé qua chùa, thiền sư nhìn thấy đều mời vào chùa chơi, rồi lấy hộp trầu cau ra mời. Một hôm Đăng Đạo đùa tinh nghịch bèn viết một chữ “Hiến” 献 vào đáy hộp rồi đi học.

Lúc Đăng Đạo trở về qua chùa, thiền sư mời vào và nói rằng chữ “Hiến” 献 đó là do chữ “Nam” 南và chữ “Khuyển” 犬 hợp thành. “Ta vốn biết nhà thầy sẽ là Trạng nguyên của nước Nam, nhưng thầy có muốn nổi tiếng cả ở triều đình Trung Quốc hay không?”

Đăng Đạo nghe thì giật mình sụp lạy, thiền sư đưa một quyển sách rồi nói: Đó là một quyển sách bí mật, nhà thầy nên đọc kỹ sẽ thành tài.

Từ đó Đăng Đạo vốn đã có trí tuệ hơn người, nay lại có thêm trí huệ của nhà Phật, ông hiểu thêm được ý nghĩa của đời người, biết được những điều vượt qua tầng thứ của người thường.

Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đăng Đạo và thiên sư Chuyết Công vẫn được người làng Hoài Bão lưu truyền đến nay.

Chùa Phật Tích

Chùa Phật Tích. (Ảnh qua mytour.vn)

Khi nhân duyên đến: Vượt tường đột nhập vào dinh phủ của mỹ nữ

Được sự dạy dỗ của cha là tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh và bác ruột là Thám Hoa Nguyễn Đăng Cảo nên Đăng Đạo có được kiến thức rất sâu rộng. Năm 16 tuổi Nguyễn Đăng Đạo đi thi và đỗ tam trường (tú tài).

Trong dân gian vẫn còn lưu truyền vụ án ly kỳ của Nguyễn Đăng Đạo, vụ án này cũng được quan tri phủ ghi chép cẩn thận:

Năm 18 tuổi vào dịp Tết Nguyên tiêu, Nguyễn Đăng Đạo mặc áo nhà nho đạm bạc cùng 2 tiểu đồng và một số bạn bè lên kinh thành chơi, khi đi quang cổng chùa Báo Thiên, Đăng Đạo bắt gặp một xe kiệu song loan dừng lại trước cổng chùa với các nữ tỳ và lính lệ theo hầu,

Phố phường rực rõ tết Nguyên Tiêu. Ảnh từ internet

Phố phường rực rõ tết Nguyên Tiêu. Ảnh từ internet

Bước xuống kiệu là một cô gái có vẻ đẹp thật mặn mà, Đăng Đạo lập tức quên hết cả cảnh đẹp xung quanh mà chỉ chú tâm vào vào người con gái này. Cô gái sau khi vào chùa rồi trở ra lên kiệu để đi, nhưng Đăng Đạo cứ bồi trước trước kiệu tựa hồ như không thể nhấc chân lên.

Thấy có chàng trai lạ đứng trước kiệu chặn mất đường, đám lính lệ quát tháo, giơ roi dọa đánh nhưng Đăng Đạo chẳng hề màng tới. Ngồi trong kiệu thiếu nữ bỗng cất tiếng nhắc khéo bọn lính lệ:  Hội vui cảnh đẹp, mọi người cùng du chơi thưởng ngoạn, các ngươi chớ nạt nộ người ta như thế.

Rồi lại bảo lính lệ nép vào lề được mà đi, Đăng Đạo suy nghĩ người con gái này quả là không chỉ đẹp người lại còn đẹp nết, liền quyết định đi theo xem nhà nàng ở đâu. Khi kiệu song loan dừng lại trước một dinh thự lớn, Đăng Đạo dò hỏi quán nước gần đấy thì được biết đây là nhà của tướng quân Ngô Hiến Hầu, là người có công lớn nên được cử coi cấm binh, chỉ huy việc quân cả kinh thành. 

Chùa Báo Thiên

Chùa Báo Thiên nổi tiếng bậc nhất kinh thành khi xưa. (Ảnh qua sggp.org.vn)

Lại biết được Ngô Hiến hầu chỉ có mỗi mụn con gái là thiếu nữ vừa gặp, không chỉ nhan sắc ít ai bì kịp mà cũng giỏi chữ nghĩa, đến tuổi rồi nhưng vẫn chưa chấm được ai.

Về xóm trọ, Đăng Đạo cứ nghĩ về thiếu nữ nọ, cảm thấy không không chỉ chỉ xinh đẹp mà hình dáng khuôn mặt rất thân quen, dường như là đã quen biết từ kiếp nào, không biết có duyên phận được gặp lại hay không, nên quyết định lên kế hoạch gặp mặt để bắt chuyện làm quen với cô gái nọ, kết quả thế nào là còn tùy cái duyên mà thôi.

Đăng Đạo đến dinh thự nọ, gặp đứa hầu nhỏ ở ngoài cổng, bèn bắt chuyện kết bạn, qua ít ngày khi đã thân quen hơn Đăng Đạo bèn hỏi kỹ lưỡng đường lối trong dinh thự, nhất là con đường vào phòng của tiểu thư, ghi nhớ rất kỹ càng.

Một buổi tối, Đăng Đạo ăn mặc gọn gang,  đột nhập dinh phủ của cô gái nọ. Nhờ hỏi han kỹ lưỡng đường trong dinh phủ, Đăng Đạo vượt qua hết lớp tường này đến tường khác rồi đột nhập vào phòng của cô gái.

Tiểu thư nhà họ Ngô giật mình khi có người lạ bước vào phòng, thế nhưng Đăng Đạo nhanh chóng trấn an, kể lại câu chuyện từ lúc được gặp tiểu thư ở chùa để cho cô gái hiểu.

Cô gải cả thẹn nói rằng: “Quân canh bao nhiêu lớp, lầu các sâu thăm thẳm, ông làm sao vào đây được? Cha tôi tính nóng như lửa, ông sẽ bị băm vằm thành bùn cho mà xem”.

Đăng Đạo cả cười tỏ ý không sợ, cô gái không biết làm thế nào bèn lấy hai tấm lụa trao cho Đăng Đạo rồi nói “nhân lúc bọn đầy tớ cha tôi chưa biết, mau tìm đường mà đi”

Đăng Đạo đáp rằng: “Nàng đừng đem cái chết dọa ta. Nếu sợ chết, ta đã không đến đây. Nếu đại nhân có tới, tôi cũng thành thực mà thưa, cớ sao đem cái chết ra dọa nhau”?. 

Tiếng của Đăng Đạo lớn như trống khiến bọ đầy tớ biết được liền chạy vào phòng bắt ông. Ngô Hiến Hầu hay tin thì nổi giận đến xem kẻ nào to gan dám đêm hôm đột nhập vào phòng con gái mình, nhưng nhìn thấy chàng trai hiền lành, nói năng nho nhã, rõ ràng chững chạc thì không đánh đập mà giải lên quan Tham Tụng là Phạm Công Trứ luận tội.

Lúc này có một vị quan họ Phạm làm việc ở Nội Viên vốn có quen biết và nghe tiếng nhà họ Nguyễn Đăng, tình cờ biết chuyện liền nói rằng:

  • “Kẻ làm việc phi thường ắt có tài khác thường. Tên này chắc có tài cán, hoài bão gì đây. Chi bằng xem nó có tài gì không. Nếu có thì nhân đó tác thành cho nó. Còn là loại côn đồ thì đánh chết chưa muộn”.

Ngô Hiến Hầu thấy thế cũng hợp lý, nên ra đề yêu cầu Đăng Đạo làm bài văn để xem tài. Đăng Đạo viết liền một mạch rồi trình lên, các quan xem xong bài phú thì đều phải trầm trồ khen hay, quả nhiên kẻ mà dám đột nhập vào dinh phủ tướng chỉ huy quân cấm vệ kinh thành thì tất không thể tầm thường.

Lúc này vị quan họ Phạm mới nói thêm vào “Ngàn vàng cũng chẳng tìm được đứa rể quý như thế đâu!”. Lúc này quan Ngô Hiến Hầu bị bài phú tuyệt tác của Nguyễn Đăng Đạo thu phục, khiến ông ta liên tục trầm trồ khen hay, hỏi quê quan xuất thân của Đăng Đạo rồi tha cho về.

Năm sau khi 19 tuổi, Đăng Đạo đỗ đầu kỳ thi Hương (giải nguyên), được triều đình cho vào học ở trường Quốc Tử Giám.

Dù Đăng Đạo là người đoạt giải nguyên, nhưng người vui mừng nhất lại là cha con tướng quân Ngô Hiến Hầu, ông đón Đăng Đạo về làm rể, tác thành cho con gái mình, kết thúc vụ án vượt tường ly kỳ của Nguyễn Đăng Đạo.

Câu chuyện vụ án trên đây được ghi chép cẩn thận trong cuốn Lan Trì kiến văn lục” của Tri phủ Quốc Oai Vũ Trinh. Vụ án ly kỳ này không chỉ được ghi chép lại trong quá trình xét xử mà còn được dân gian truyền lại cho đến nay.

Năm 1683 Nguyễn Đăng Đạo dự kỳ thi Đình, nội dung khoa thi năm đó là “ Có nền tảng thái bình tất phải có quang cảnh thái bình”, bài “Văn Sách” của Đăng Đạo được đánh giá là văn chương điêu luyện, kiến thức sâu rộng không ai bì kịp

Đặng Đạo đỗ Trạng Nguyên kỳ thi này, vì làng của ông còn có tên nôm là làng Bịu nên dân gian vẫn quen gọi ông là Trạng Bịu. Cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” có ghi chép rằng “Mùa xuân, tháng Giêng, thi Đình. Cho Nguyễn Đăng Đạo, Phạm Quang Trạch, Quách Giai ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Đương Hồ tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp); bọn Trần Thiện Thuật 14 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân”.

Xướng danh yết bảng. (Ảnh từ kienthuc.net.vn)

Xướng danh yết bảng. (Ảnh từ kienthuc.net.vn)

Không sợ cường quyền, can ngăn chúa Trịnh

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Đăng Đạo thăng tiến nhanh chóng, qua mấy năm đã được bổ nhiệm vào Lại bộ thị lang, năm 1689 thăng lên làm Đô ngự sử.

Ông là người có công tiến cử những bậc hiền tài thời đó như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Bùi Sĩ Tiêm v.v…những người này ít lâu sau đều giữ chức Tham tụng trong phủ chúa, đứng vào hàng quan lại bậc nhất của triều đình.

Bằng uy tín cùng sự thẳng thắn, trung thực của mình, ông đứng ra can ngăn chúa Trịnh khi nhà Chúa không phải phép mà lấn át vua Lê.

Lúc chúa Trịnh Căn mới lên ngôi liền đưa ra quy định rằng: Vào ngày “sóc vọng” các quan sau khi vào chầu vua Lê xong phải để nguyên y phục vào phủ Chúa chầu mình.

Các quan đều phải tuân theo, riêng Đăng Đạo bao giờ cũng chầu Vua xong, về nhả thay đồ thường phục rồi mới vào chầu phủ Chúa. Chúa Trịnh Căn không bằng lòng liền hạch tội ông, Đăng Đạo thưa rằng:

– Mũ áo triều đình ban cho là để chầu thiên tử. Nay nhà chúa cũng đòi trăm quan làm như thế với mình, e thiên hạ dị nghị là trái đạo vua tôi.

Chúa cho là phải, khen ông là người trung nghĩa và còn thưởng vàng cho ông, đồng thời cho bãi bỏ lệ này.

Cuốn “Bắc Ninh phong thổ tạp ký” có ghi chép sự việc này như sau: “Lúc bấy giờ trăm quan muốn dùng triều phục bệ kiến vua vào chầu ở phủ chúa Trịnh, ông cho là phi lễ. Chúa Trịnh khen thưởng vì tính cương trực, tặng cho 200 lạng vàng”. 

Quan cao trọng vọng vẫn hết lòng vì làng quê

Dù làm quan Đại Thần cao sang, nhưng ông luôn nghĩ đến những người nghèo khó, nghe tin làng Bịu bị úng lụt mất mùa ông viết thư cho vợ rằng: “Ta làm quan đại thần trong triều, không nỡ ngồi nhìn dân ta đói mà không xót thương, phu nhân phải đem tiền gạo, thóc của nhà ra mà cứu đói, cấp thóc cho dân gieo cấy ”. Dân làng Bịu nhờ đó mà qua được bước khó khăn.

Lần đi sứ trở về nhà ông phát hiện vợ mình đã làm thêm hai gian nhà ngói, ông tỏ ý không bằng lòng; thế nhưng với dân làng thì ông lại rất hào phóng, ông dành tiền tu bổ làng miếu ở quê.

Theo lệ thì ông phải nhận ruộng công do triều đình ban cho, ông liền nhận những ruộng xấu, bị bỏ hoang lau lách ở cánh đồng, rồi cho thuê người phát cỏ cải tạo thành ruộng tốt rồi chia lại cho các hộ nghèo.

Người dân trong làng truyền nhau rằng: “….Công đức của tướng công, trải muôn đời ghi nhớ khôn cùng…”.

Lưỡng quốc Trạng Nguyên lừng danh sử sách

Đăng Đạo 2 lần được cử đi sứ nhà Thanh, lần nào cũng làm rạng danh cho đất Việt.

Thời gian này các quan thổ ty nhà Thanh hay đưa quân quấy nhiễu lấn chiếm đất đai nơi biên giới với Đại Việt, triều đình nhiều lần cử các Đại Thần đi sứ nhưng không đòi lại đất được.

Năm 1697 Nguyễn Đăng Đạo lãnh sứ mệnh dẫn đầu đoàn sứ bộ đến nhà Thanh nhằm giải quyết tranh chấp vùng đất ở hai động Tuyên Quang và Hưng Hóa. Đây là việc rất khó khăn, thế nhưng Nguyễn Đăng Đạo đã đưa ra những lập luận không thể chối cãi và yêu cầu nhà Thanh trả lại các vùng đất cho Đại Việt.

Tuy nhiên quan lại nhà Thanh lại lo rằng nếu trả đất sẽ thành thông lệ, sau này sẽ lại đòi thêm vì thế mà chần chừ chưa quyết việc trả đất.

Quan lại nhà Thanh nhiều lần tìm cách thử tài ông, để khẳng định vị thế của Đại Việt nên Đăng Đạo nhiều lần vượt qua các cuộc thử tài.

Có lần, vua Thanh ra vế đối: “Xuân tiêu phong nguyệt, nguyệt thiêm hoa sắc, phong tống hoa hương, hương sinh sắc, sắc sinh hương, hương hương sắc sắc mãn xuân tiêu, tương tư khách ứng tương tư khách”. Nghĩa là: (Đêm xuân trăng gió, trăng thêm sắc cho hoa, gió đưa hương hoa, hương sinh sắc, sắc sinh hương, hương hương sắc sắc suốt đêm xuân, khách tương tư nhớ nhung khách tương tư). Một vế đối đầy chất thơ, luyến láy bởi những âm điệu trầm bổng giàu nhạc điệu.

Thực là một vế đối khó khiến các sứ thần ngơ ngẩn. Rồi sứ giả Triều Tiên đối: “Tùng viện trúc mai, mai sinh long diệp, trúc hóa long chi, chi ty diệp, diệp ty chi, diệp diệp chi chi liên tùng viện, hữu tình nhân thức hữu tình nhân”. Nghĩa là: (Mai trúc lầu tùng, mai trồi lá đẹp, trúc này cành xinh, cành liền lá, lá liền cành, lá lá cành cành sát lầu tùng, người hữu tình hiểu người hữu tình). Còn Đăng Đạo đối: “Hạ nhật cầm thi, thi ngụ ngã tính, tính viên tình, tình viên tính, tính tính tình tình ngu hạ nhật, tri âm nhân thức tri âm nhân”. Nghĩa là: (Ngày hạ đàn thơ, thơ ngụ tình ta, đàn hòa tình ta, tính vươn tình, tình vươn tính, tính tính tình tình vui ngày hạ, bạn tri âm biết bạn tri âm). Vế đối của Đăng Đạo được vua quan nhà Thanh khen là “chung đúc cả tạo hóa trong một con người”

Có lần Vua nhà Thanh cũng yêu cầu sứ thần các nước làm bài phú Bái Nguyệt đình (Vịnh trăng sáng). Trong khi sứ thần các nước đang loay hoay từng chữ thì Đăng Đạo nhanh chóng làm xong, các quan nhà Thanh xem xong thì kinh ngạc cho là tuyệt tác, vua Thanh đọc xong cũng khen ngợi, ban cho ông là Đệ nhất khôi nguyên (trạng nguyên) của Bắc triều, ban mũ áo võng lọng và cho ông vinh quy về nước.

Nguyễn Đăng Đạo trở thành Trạng Nguyên của cả hai triều, lời nói năm xư của thiền sư Chuyết Công đã ứng nghiệm, ông cũng hoàn thành sứ mệnh giải quyết việc tranh chấp đất đai vùng biên giới mà suốt nhiều năm liền trước chưa ai làm được.

Sau chuyến đi sứ về, ông được phong làm “Lễ bộ thượng thư” kiêm “Đông các Đại học sĩ”. Năm 1718 ông xin nghỉ hưu, đến năm 1719 thì mất.

Tưởng nhớ

Sau khi ông mất vua Lê Dụ Tông buồn thương tiếc viết tứ thơ:

Núi chè cao ngất, sông Đức trong,

Người tài chung đúc bởi non sông.

Một cành tươi tốt muôn cành đẹp,

Bảy lá hương thơm vạn lá hồng.

Lớp lớp quan giai nhờ lộc nước,

Đời đời nghiên bút giữ gia phong.

Nền nhân, cỗi phúc nay còn mãi,

Xe ngựa làng xưa vẫn đợi mong.

Đền thờ Lưỡng quốc trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo tại làng Bịu (xã Liên Bão, huyện Tiên Du). (Ảnh từ I.T).

Đền thờ Lưỡng quốc trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo
tại làng Bịu (xã Liên Bão, huyện Tiên Du). (Ảnh từ I.T).

Nhà Vua cũng tặng ông 4 chữ “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên” treo tại nhà thờ ông ở thôn Hoài Thượng, dân làng cũng tôn ông làm Thành Hoàng làng Hoài Bão.

Năm 1999 lăng mộ lưỡng quốc trạng nguyễn Nguyễn Đăng Đạo được xây dựng tại nghĩa trang thành phố Bắc Ninh

Trần Hưng

Theo trithucvn.net

Chuyên đề:

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc