Home » Kinh doanh » 5 thảm kịch siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại
5 thảm kịch siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại
Siêu lạm phát đầu tiên trên thế giới xảy ra vào thời kỳ Cách mạng Pháp thế kỷ 18. Siêu lạm phát thường có nguyên nhân từ chiến tranh, sự quản lý yếu kém của chính phủ.
Hãy tưởng tượng có thể một ngày xấu trời và đen tối nào đó, khi bạn uống xong một cốc cà phê, giá cốc cà phê đã tăng gấp đôi.Chuyện thật tồi tệ đó xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát khi giá tăng quá nhanh đến nỗi tiền trở nên vô giá trị chỉ sau một đêm thậm chí một ngày làm việc.

Hiện nay, lạm phát trở thành chủ đề được bàn tán nhiều tại Mỹ và dù nhiều người lo lắng về ảnh hưởng của đồng USD yếu lên nền kinh tế, lịch sử cho chúng ta thấy lạm phát đã từng tồi tệ hơn hiện nay rất nhiều.

Năm 2008, ông Steve H. Hanke, giáo sư kinh tế tại đại học Johns Hopkins University kiêm nghiên cứu viên tại viện CATO, nghiên cứu về tình hình siêu lạm phát tại Zimbabwe để tìm hiểu về nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát mất kiểm soát.

Nghiên cứu của ông cho thấy siêu lạm phát nhìn chung thường đi kèm với chiến tranh, chính sách tài khóa kém hiệu quả, tuy nhiên nguyên nhân trọng tâm vẫn ở cung tiền tăng trưởng quá nhanh mà không được hỗ trợ bởi tăng trưởng kinh tế.

Siêu lạm phát đầu tiên trên thế giới xảy ra vào thời kỳ Cách mạng Pháp thế kỷ 18 (1789 – 1799) khi đó lạm phát theo tháng lên mức 143%. Thế nhưng phải đến thế kỷ 20 loại lạm phát vượt tầm kiểm soát này mới trở lại.

Theo báo cáo của ông, trong thế kỷ 20, thế giới chứng kiến 17 lần siêu lạm phát tại Đông Âu và Trung Á trong đó bao gồm 5 lần tại Mỹ – Latinh; 4 lần tại Tây Âu; 1 tại Đông Nam Á và 1 tại châu Phi.

Mỹ chưa bao giờ trở thành nạn nhân của siêu lạm phát thế nhưng cũng đã một lần gần như vậy. Trong thời kỳ Đại chiến nước Mỹ và Nội chiến, chính phủ in tiền mạnh tay để chi phí cho chiến tranh. Tuy nhiên, trong cả hai lần trên, chưa bao giờ lạm phát của Mỹ vượt quá 50% (ngưỡng được coi như siêu lạm phát), thấp hơn nhiều so với trường hợp tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới.

5. Hy Lạp tháng 10/1944

Lạm phát theo tháng cao nhất: 13.800%

Cứ sau 4,3 ngày, giá cả tăng gấp đôi

Xét trên phương diện kỹ thuật, siêu lạm phát tại Hy Lạp bắt đầu vào tháng 10/1943 khi Đức chiếm đóng Hy Lạp. Tuy nhiên lạm phát tăng nhanh khi chính phủ Hy Lạp cuối cùng giành được quyền kiểm soát Athen tháng 10/1944. Trong tháng đó, giá tăng 13.800% và thêm 1.600% trong tháng 11/1944.

Năm 1938, người Hy Lạp nắm đồng drachma trung bình khoảng 40 ngày trước khi chi tiêu thế nhưng đến 10/11/1944, thời gian trung bình giảm xuống 4 tiếng. Năm 1942, tờ tiền mệnh giá lớn nhất là 50.000 drachma thế nhưng đến năm 1944, tờ tiền mệnh giá lớn nhất lên đến 100 nghìn drachmai.

Ngày 11/11 cùng năm, chính phủ công bố định giá lại đồng tiền, tờ drachmai cũ chuyển sang tờ drachma mới ở tỷ lệ 50 tỷ ăn 1 dù phần đông dân số sử dụng đồng bảng Anh cho đến giữa năm 1945.

Nỗ lực bình ổn đã khá thành công, trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 5/1945, giá cả chỉ tăng 140% và đến tháng 6/1945, giá tăng 36,8%.

Thế nhưng sau đó, từ khi chuyên gia kinh tế Kyriakos Varvaressos được đưa vào nhóm các nhà hoạch định chính sách kinh tế, mọi chuyện tồi tệ hơn. Kế hoạch nhận thêm hỗ trợ từ nước ngoài, hồi phục sản xuất nội địa và áp dụng kiểm soát lương, giá cả thông qua phân phối lại tài sản khiến vấn đề thâm hụt ngân sách ngày một trầm trọng hơn, ngày 01/09/1945, Kyriakos Varvaressos từ chức.

Sau nội chiến tháng 1/1945 đến tháng 12/1946, chính phủ Anh đề xuất kế hoạch bình ổn đất nước, trong đó bao gồm việc tăng nguồn thu thông qua bán hàng viện trợ, điều chỉnh một số loại thuế nhất định, thay đổi cách thức thu thuế và đưa ra Ủy ban tiền tệ mới baog gồm 3 người, một người Hy Lạp, Một người Anh và một người Mỹ để quản lý chính sách tài khóa. Đến đầu năm 1947, giá cả đã bỉnh ổn, niềm tin của công chúng phục hồi và thu nhập quốc dân tăng. Hy Lạp thoát khỏi tình trạng siêu lạm phát.

Nguyên nhân chính của lạm phát tại Hy Lạp

Nguyên nhân chính của lạm phát tại Hy Lạp chính là Chiến tranh Thế giới thứ Hai khiến nước này chồng chất nợ nần, thương mại sụt giảm và chịu 4 năm chiếm đóng.

Đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai, thặng dư ngân sách của Hy Lạp đạt 271 triệu drachma, thế nhưng đến năm 1940, nước này chịu thâm hụt 790 triệu drachma chủ yếu do thương mại sụt giảm, sản xuất công nghiệp đi xuống, nguồn cung nguyên liệu thô khan hiếm và chi phí cho chiến tranh tăng cao.

Ngân hàng Trung ương Hy Lạp in quá nhiều tiền để bù đắp thâm hụt, cung tiền tăng gấp đôi chỉ sau 2 năm. Nguồn thu từ thuế giảm, chi phí cho quân sự tăng gần 10 lần, tình hình tài chính của Hy Lạp khó tránh khỏi đi xuống.

4. Đức tháng 10/1923

Lạm phát theo tháng cao nhất: 29.500%

Cứ sau 3,7 ngày, giá cả tăng gấp đôi

Trong những năm tồn tại cuối cùng, chính phủ cộng hòa Weimar đương đầu với siêu lạm phát. Tháng 10/1923 khi lạm phát tháng tăng ở mức 29.500% và với tỷ lệ ngày 20,9%, cứ sau 3,7 ngày, giá cả hàng hóa tăng gấp đôi.

Đồng mác Đức (papiermark), đồng tiền được đưa vào lưu hành năm 194 khi chế độ bản vị vàng chấm dứt giao dịch với đồng USD ở mức 4,2 mác/USD khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất bắt đầu.

Đến tháng 8/1923, 1 triệu mác Đức mới đổi được một USD. Đến tháng 11/1923, con số này lên mức 238 triệu mác Đức/USD và khi trật tự tâm lý có tên “Zero Stroke” được đưa ra, người ta khi đó đã phải giao dịch hàng trăm tỷ mác Đức cho các chi phí hàng ngày và phát điên với lượng tiền quá nhiều với các con số 0 bất tận.

Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng tiền, thay thế đồng papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và giảm đi 12 số 0 trên tờ tiền. Dù đồng rentenmark đã bình ổn tình hình và chính phủ cộng hòa Weimar tồn tại cho dến năm 1933, siêu lạm phát và áp lực kinh tế đã dẫn đến việc nổi lên của đảng Nazi và Adolf Hitler.

Adolf Hitler là Chủ tịch Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, viết tắt NSDAP) từ năm 1921, Thủ tướng Đức từ năm 1933, là “Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc” kiêm nguyên thủ quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934. Ông kiến lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ tam Đế quốc, cấm chỉ tất cả các đảng đối lập và bức hại các đối thủ chính trị. Ông đã khởi phát Chiến tranh Thế giới thứ Hai, thúc đẩy một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi và sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác, được gọi là cuộc Đại đồ sát dân Do Thái (Holocaust).

Nguyên nhân chính của lạm phát tại Đức

Dù nhiều người tin rằng siêu lạm phát của nước cộng hòa Weimar bắt nguồn từ việc chính phủ in quá nhiều tiền để chi trả cho chiến tranh, nguyên nhân chính chỉ lộ rõ ra vài năm sau đó.

Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu chi tiền cho chiến tranh thông qua đi vay chứ không phải tăng thuế. Năm 1919, giá cả đã tăng gần gấp đôi, Đức thua trận. Giai đoạn từ năm 1919 đến 1921, đồng tiền này khá ổn định nếu so với những năm trước đó.

Việc giải quyết hậu quả chiến tranh theo yêu cầu của hòa ước Versailles buộc Đức phải trả các chi phí bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng chứ không phải đồng papiermark. Đức sử dụng đồng papeirmarks đảm bảo bằng nợ chính phủ để mua ngoại tệ và vì thế đẩy nhanh tốc độ phá giá đồng tiền.

Hòa ước Versailles năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt Thế chiến thứ Nhất (1914–1918) giữa Đức và các nước thuộc phe Hiệp Ước. Hòa ước quy định Đức phải trả lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một mảnh đất cho Bỉ, một mảnh tương tự ở Schleswig cho Đan Mạch – tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân

Khi người Đức không thể trả được tiền, quân Pháp và Bỉ chiếm đóng thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để yêu cầu trả bằng hiện vật dẫn đến hàng loạt vụ đình công và phản kháng của người Đức khiến mọi chuyện tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc làm sao giải quyết được tình hình, kinh tế Đức nhanh chóng suy sụp trong chỉ hơn 1 năm, một nửa nước Đức chìm trong siêu lạm phát.

3. Yugoslavia tháng 1/1994

Lạm phát theo tháng cao nhất 315.000.000%

Cứ sau 1,4 ngày giá tăng gấp đôi

Một trường hợp siêu lạm phát khác xảy ra với đồng dinar của Yugoslavia trong khoảng thời gian từ năm 1993 – 1995. Lạm phát tồi tệ nhất vào thời điểm tháng 1/1994 khi đó giá tăng 313 triệu % trong tháng tương đương 64,6%/ngày, giá tăng gấp đôi chỉ sau 34 giờ. Trong toàn bộ thời kỳ lạm phát, ước tính giá cả tăng khoảng 5 nghìn triệu triệu lần.

Cuối cùng, nhiều doanh nghiệp Yugoslavia từ chối sử dụng đồng dinar và đồng mác Đức (DM) trở thành đồng tiền không chính thức của đất nước này, ngay cả sau khi chính phủ định giá lại đồng dinar bằng việc chuyển 1 triệu dinar cũ sang 1 dinar mới.

Sau lần định giá đồng tiền thứ 1, 1 dinar “rất mới” tương tương 1 tỷ dinar cũ nhưng cuối cùng khi đó 6 nghìn dinar rất mới cũng mới chỉ đổi được 1 mác Đức. Ngày 17/01/1994, tỷ giá vọt lên 1 mác Đức = 30 triệu dinar; đến ngày 24/01, chính phủ công bố đồng siêu dinar tương đương 10 triệu dinar rất mới. Chính phủ Yugoslavia như vậy đã 5 lần phá giá đồng tiền.

Trong suốt giai đoạn này, chính phủ gặp nhiều khó khăn trong duy trì cấu truc xã hội sau khi áp dụng các biện pháp kiểm soát giá cả không hiệu quả khiến vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Các cơ quan chính phủ không thể hoạt động, người dân trì hoãn trả tiền bởi họ biết mọi thứ sẽ mất giá rất nhanh sau đó.

Nguyên nhân siêu lạm phát tại Yugoslavia

Nguyên nhân đằng sau lạm phát của Yugoslavia chính từ những xung đột trong khu vực, khủng hoảng kinh tế khu vực và việc điều hành thiếu hiệu quả của chính phủ.

Sau thời kỳ suy thoái kinh tế bắt nguồn từ vay nợ nước ngoài quá nhiều và xuất khẩu bị ngưng lại vào thập nien 1970, Yugoslavia và khu vực chìm trong xung đột và bất ổn chính trị trong suốt thập niên 1980 và 1990.

Sau khi nhận khoản vay từ IMF sau thời kỳ kinh tế suy thoái sâu; đến năm 1989 và năm 1990, khoảng 1.100 công ty phá sản trong lực lượng lao động 2,7 triệu người. Hơn 600 nghìn lao động bị sa thải. Ngoài ra, một số công ty, trong quá trình cố gắng tránh phá sản, không trả lương trong vài tháng đầu của năm, quyết định này ảnh hưởng đến khoảng 500 nghìn người.

Chiến tranh Yugoslav, sự tan rã và mất ổn định của chính phủ trung khu vực góp phần không nhỏ dẫn dến siêu lạm phát. Sự quản lý yếu kém của chính phủ trong đó bao gồm việc in tiền không hạn chế và áp đặt giá cả chỉ khiến mọi chuyện tồi tệ hơn. Người nông dân thà đóng cửa hàng còn hơn bán hàng chịu lỗ theo mức giá mà chính phủ đã áp dụng. Nguồn cung giảm mạnh, giá càng tăng phi mã.

2. Zimbabwe tháng 11/2008

Lạm phát theo tháng cao nhất 79.600.000.000%

Cứ 24,7 tiếng, giá tăng gấp đôi

Trong lần siêu lạm phát gần đây nhất trên thế giới, khủng hoảng tiền tệ tại Zimbabwe lên mức tồi tệ nhất vào tháng 11/2008 và tăng 79 tỷ %/tháng. Dù chính phủ Zimbabwe ngừng công bố con số về lạm phát trong thời kỳ siêu lạm phát tồi tệ nhất, báo cáo sử dụng lý thuyết kinh tế chuẩn (so sánh về ngang giá sức mua) để tính toán.

Cứ 24 giờ trôi qua, giá cả tăng gấp đôi. Chỉ vài ngày sau khi phát hành tờ tiền mệnh giá 100 triệu, Ngân hàng Trung ương phát hành tiền mệnh giá 200 triệu và hạn chế số tiền rút ra khỏi ngân hàng ở mức 500.000 tương đương 0,25 USD.

Khi tờ 100 triệu được đưa vào lưu hành, giá cả tăng nhảy vọt; báo cáo cho thấy 1 ổ bánh mi tăng từ 2 triệu lên 35 triệu chỉ sau 1 đêm. Chính phủ còn tuyên bố lạm phát là bất hộ pháp và bắt giữ giám đốc điều hành công ty nào dám tăng giá bán hàng.

Tình hình tồi tệ đến mức nhiều cửa hàng tại đất nước này từ chối đồng nội tệ và chỉ nhận đồng USD hay đồng rand của Nam Phi. Ngân hàng Trung ương Zimbabwe cuối cùng phải định giá lại đồng tiền và neo nó vào đôla Mỹ. Chính phủ cũng buộc phải đóng cửa sàn chứng khoán.

Nguyên nhân lạm phát tại Zimbabwe

Khi Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, chính phủ nước này quyết định sử dụng đồng tiền mới với giá trị ban đầu so với đồng USD ở mức khoảng 1,25USD. Chính phủ Zimbabwe quản lý yếu kém và mất kiểm soát lạm phát.

Xu thế hình thành siêu lạm phát bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi Tổng thống Mugabe đưa ra chương trình phân phối lại đất đai, ông lấy đất từ người nông dân gốc Âu dành cho người nông dân bản xứ. Nhóm người nông dân giàu kinh nghiệm bỗng dưng mất đất, sản lượng nông nghiệp sụt giảm xuống dưới mức cần thiết, giá tăng không tránh khỏi.

Đầu thế kỷ 21, Zimbabwe bước vào siêu lạm phát và đến năm 2006, Zimbabwe in thêm 21 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả nợ IMF. Cùng trong năm đó, Zimbabwe tiếp tục in thêm 60 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả lương cho quân đội, cảnh sát và nhiều viên chức nhà nước.

Năm 2007, nguồn cung thực phẩm, nhiên liệu và thuốc men thiếu trầm trọng, lạm phát tháng vượt mức 115 nghìn %. 6 tháng cuối năm 2007, chính phủ Zimbabwe quyết định ngưng trả lương.

Tháng 4/2008, 50 triệu đồng Zimbabwe tương đương 1,20USD trong khi đó Ngân hàng Trung ương ước tính kinh tế nước này tăng trưởng âm 6% so với 1 năm trước. Theo Los Anelges Times đưa tin, vào tháng 7/2008, chính phủ Zimbabwe đã có lúc hết giấy để in tiền bởi phía châu Âu ngừng cung cấp giấy in tiền cho Zimbabwe do lo ngại về lý do nhân đạo.

1. Hungary năm 1946

Lạm phát theo tháng cao nhất 13.600.000.000.000%

Giá cả tăng gấp đôi sau 15,6 tiếng

Trường hợp siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới xảy ra ở Hungary nửa đầu năm 1946. Đến giữa năm 2011, tờ bạc mệnh giá lớn nhất tại Hungary là 100.000.000.000.000.000.000 pengo. Ở thời điểm lạm phát đỉnh cao, tỷ lệ lạm phát hàng ngày lên tới 195%, cứ sau 15,6 giờ, giá cả các loại hàng hóa tăng gấp đôi.

Nguyên nhân chính của lạm phát tại Hungary chính là lĩnh vực nông nghiệp nước này chịu ảnh hưởng tồi tệ bởi Đại Suy thoái, nợ công quá cao buộc chính phủ Hungary phải phá giá đồng tiền. Hơn nữa, Hungary gặp nhiều khó khăn trong giải quyết hậu quả tồn đọng suốt từ Chiến tranh Thế giới thứ Nhất.

Đến Chiến tranh Thế giới thứ Hai, chính phủ Hungary kiểm soát kinh tế yếu kém, Ngân hàng Trung ương in tiền ồ ạt để đáp ứng nhu cầu tài chính của chính phủ mà không áp dụng bất kỳ hạn chế nào.

Theo cafef

Ngọc Diệp

Chuyên đề:

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc