Home » Cổ truyền, Tiêu biểu sideshow, Tiêu Điểm, Văn hóa » Kinh thành Hoa Lư: Trang hùng sử mãi còn ghi
Kinh thành Hoa Lư- Những trang hùng sử khắc ghi những tấm lòng Trung –Hiếu- Nghĩa của triều đại Đinh Lê 1000 năm trước.

hoa-lu-1
Cố đô Hoa Lư: vách núi dựng cao Trời- Đất – Nước, sừng sững ngàn năm mây bay gió thổi

Cố nhân quay lại đã nghìn năm
Đô thành ngày ấy dưới trăng rằm
Hoa trôi giếng Ngọc đâu còn nữa
Lư thành người cũ có viếng thăm

Cung điện vàng son một thuở nào
Thuyền rồng sóng vỗ mạn lao xao
Ngàn thu bóng xế bao ưu hoạn
Để lại kinh thành vạn ánh sao

hoa-lu-2
Cung điện vàng son một thuở nào

Cõi nhân sinh như mộng thoảng, quá khứ đẹp đẽ tráng lệ thuở nào. Người xưa quay trở về, nhìn lại đã ngàn năm trôi qua.

Kinh thành đất Việt ngày xưa ấy, núi rừng trùng điệp, non nước đẹp như thơ, hai vị hoàng đế Đinh -Lê trong những chiếc áo bào uy nghi lộng lẫy ra trận, những hoàng hậu ghim cài gương soi, những vị quan văn quan võ chính trực thành tín, những công chúa thanh tao, những thiên tình sử triều đình bi thương mà khí phách, những trung thần oai hùng tuẫn tiết theo vua, họ trở về như bức tranh đối lập với con người hiện đại vội vã mệt mỏi với guồng quay bận rộn của cuộc sống và những lo toan cá nhân dường như bất tận….

Tâm hồn bỗng trùng xuống, dịu lại, êm ả bước vào bức tranh cổ tích…

Là con người hiện đại của thời nay, trong cuộc sống hối hả này, khi dừng lại trong một khoảng tĩnh lặng, chợt thấy rằng những vẻ đẹp Trung -Nghĩa ấy là vẻ đẹp lẫm liệt và vĩnh cửu.

Mời quý độc giả lên xe bước vào hành trình ngược về quá khứ, tìm lại năm tháng huy hoàng thuở nào.

kinh-thanh-hoa-lu-3
Kinh thành đất Việt ngày xưa ấy, núi rừng trùng điệp, non nước đẹp như thơ

1. Vẻ đẹp cố đô Hoa Lư 1000 năm trước: những hang động kỳ ảo tiên cảnh giữa đỉnh núi đá mây phủ, sông nước hữu tình

Mở một cánh cửa nhìn vào quá khứ ấy, độc giả bước vào một thế giới gần như bị bỏ quên, thế giới của những rồng, phượng hoàng, kỳ lân, tiên Phật, và các nhà vua và anh hùng dân tộc nơi kinh thành Tràng An (Hoa Lư, Bái Đính Ninh Bình) triều Đinh Lê Lý, cách đây đã hơn 1000 năm. Đó là kinh đô nơi “vùng đất của các hang động kỳ ảo giữa những đỉnh núi đá mây phủ”, với những ngon núi thiêng, những con suối trong lành được gọi là long mạch. Thế giới ấy là kinh đô nước Đại Cồ Việt xưa:

[Nghìn năm mưa nắng với đất trời
Thành cổ Hoa Lư giữa mây trôi
Vách núi dựng cao trời đất nước
Cờ lau gió thổi mãi không thôi.] 
(Trường Thành)

hoa-lu-4
Thành cổ Hoa Lư- nghìn năm mưa nắng với đất trời

Cung điện Hoa Lư ngày xưa gồm ba cung điện vàng son lộng lẫy là cung điện Trường Xuân, Phong Lưu và Cực Lạc, giờ đã nằm sâu trong lòng đất.

Những trụ cổng, tường gạch, lối đi đều in dấu vết thời gian với những lớp rêu phong cũ kỹ:

den-tho-dinh-tien-hoang
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng xưa chính là nền cung điện lộng lẫy, giờ đã một phần bị chôn vùi trong lòng đất. Đôi nghê trên cột trụ cổng và câu đối có khắc chữ TÂM

Nghê chầu đồng trụ đã ngàn năm
Sương gió thời gian mãi dãi dầm
Lồng lộng trời cao đôi nghê cổ
Lưu lại đời sau có chữ TÂM
(Đồng trụ)

Năm 1010, kết thúc triều đại Đinh Lê, vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long, từ đó Hoa Lư trở thành Cố Đô. Hoa Lư làm kinh đô được 42 năm:

Trường Xuân cung điện triều nhà Đinh
Phong Lưu, Cực Lạc cả cung đình
Hoang phế ngàn năm trong lòng đất
Dấu ấn một thời thịnh hiển vinh.

Đàn xưa cung nữ múa bên sân
Trăm quan chầu trước cửa bệ rồng
Vua Đinh bào tía thời cung kiếm
Gió thoảng mây ngàn giữa hư không
(Cung điện triều Đinh)

Vẻ đẹp kinh đô kỳ vĩ Hoa Lư xưa, hiểm trở nhưng nên thơ gắn với hình ảnh như mơ như thực, vua Đinh Tiên Hoàng cùng rồng tía cưỡi hạc bay về:

Cố đô Đại Việt thành Hoa Lư
Núi non trùng điệp phủ mây mù
Kinh đô Việt cổ nằm thung rộng
Đại Thắng Minh Hoàng mãi ngàn thu.
(Cố đô Hoa Lư)

vong-cung-tay-bac-day-non-le

 Vòng cung Tây Bắc dãy non Lê

Vòng cung Tây Bắc dãy non Lê
Vua Đinh rồng tía cưỡi hạc về
Chiều tà soi bóng kỳ lân phục
Hùng vĩ trời nam dãy non khê
(Dãy non Lê)

Vẻ đẹp cố đô Hoa Lư xưa còn gắn liền với những hình ảnh đồng quê, khi xanh mướt thanh bình, khi vàng ruộm màu lúa chín, những cánh cò, hay những hang động kỳ vĩ thần tiên:

song-nuoc

Sông nước bao la cảnh hữu tình- Nắng tràn thung rộng sóng lung linh

Sông nước bao la cảnh hữu tình
Nắng tràn thung rộng sóng lung linh
Chim bơi cá nhảy trên sông vắng
Đâu biết ngày xưa cảnh chiến chinh

Đàn trâu gặm cỏ bên chân núi
Mục đồng thổi sáo dắt trâu về
Lam chiều vương khói trên giàn mướp
Ráng hồng nhuộm thắm cánh đồng quê
(Đồng quê)

song-soi-bong-nhan

Sông soi bóng nhạn cánh chim trời, những đàn cò trắng ngàn năm vẫn đậu – Một vẻ đẹp khó tả của cố đô Hoa Lư

Những hang động kỳ vĩ thần tiên Tam Cốc, Bích Động, Hang Sáng, Hang Tối, Hang Nấu Rượu… những chùa chiền trầm mặc:

Nước mòn vách núi hẻm đá vôi
Biển cả ngàn xưa đã xa rồi
Ngô đồng uốn lượn theo vách núi
Sông soi bóng nhạn cánh chim trời.
(Tam Cốc)

bich-dong

Bích Động- xứng danh ngọc quý của trời Nam

Lung linh ngọc quý của trời Nam
Động xanh ngọc bích ghép tên vàng
Ngũ nhạc triều quy Long hội tụ
Thanh tao thi vị cảnh thôn trang.
(Bích Động)

Vẻ đẹp kỳ ảo của cố đô Hoa Lư như mơ như thực, như xứ của thần tiên gửi vào giữa đời thực:

Nhũ đá trần hang giọt nước rơi
Tiên bay mây trắng cả hang trời
Ngư ông râu bạc ngồi câu cá
Ông lão đánh cờ nước chảy xuôi
(Hang đá)

hem-da-voi

Nước mòn vách núi hẻm đá vôi-Biển cả ngàn xưa đã xa rồi…

Hoài niệm quá khứ và người xưa dường như về ẩn hiện với Hoa Lư:

Cung tần mỹ nữ có về đây
Sương khói ngàn thu đã vơi đầy
Gió thổi chim kêu hòa điệu múa
Ngọc ngà người đẹp ẩn trong mây
(Hang Múa)

2. Đinh Bộ Lĩnh, chân mệnh đế vương, thống nhất giang sơn, xưng đế dựng lập kinh đô Hoa Lư nước Đại Cồ Việt – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, “sơn thanh thủy tú”

Triều Đinh Lê thế kỷ 10 gắn với giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam, giai đoạn của kỉ nguyên độc lập, tự chủ và phục hưng dân tộc sau 1000 năm Bắc thuộc.

Thành tựu của thế kỉ này là sự thành lập và củng cố chính quyền độc lập từ nền móng ban đầu của chính quyền họ Khúc, họ Dương đến vương triều Ngô, Đinh, tiền Lê; trong đó nhân vật lịch sử Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn đã ghi dấu những mốc son chói lọi. Đinh Bộ Lĩnh, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn, trở thành vị Hoàng đế khai sáng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập sau một ngàn năm phương Bắc đô hộ.

2.1. Chân mệnh đế vương từ thuở lọt lòng: hai chữ “Thiên tử” báo hiệu người mang thiên mệnh tới thế gian.

thanh-hoa-lu

Thành cũ Hoa Lư giữa trùng điệp núi rừng bao phủ

Đinh Bộ Lĩnh là con ông Đinh Công Trứ (quê ở làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng tức thôn Văn Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ngày nay) với bà Đàm Thị. Đinh Công Trứ vào Châu Ái (Thanh Hóa ngày nay) tham gia cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ, được phong làm thứ sử Châu Hoan (nay là Nghệ An). Đến thời Ngô Quyền (con rể của Dương Đình Nghệ), Đinh Công Trứ vẫn được làm thứ sử Châu Hoan.

Sách sử chép lại rằng, Đinh Bộ Lĩnh sinh ra trong khoảnh khắc: “Hôm ấy trời đang nắng chang chang, bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, mây đen vần vũ”. Khi mẹ Đàm Thị sinh nở, những người vào động lễ sơn thần thấy trên các cây sen núi, lá nào cũng có vệt sên bò thành chữ “Thiên tử” (con Trời).

Sau khi Đinh Công Trứ mất, bà Đàm Thị đưa Đinh Bộ Lĩnh về quê ở động Hoa Lư, sống nương nhờ vào người chú của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Thúc Dự.

Từ nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã có biệt tài về bơi lội. Dòng sông chảy qua làng rất lớn, rất sâu và xiết, chỉ có Đinh Bộ Lĩnh mới bơi ra được giữa dòng, lặn sâu xuống bắt cá được. Ai muốn ba ba to chừng nào chỉ cần lấy tay vẽ lên cát, đứng chờ một lát ông sẽ bắt lên đúng như hình vẽ này. Chính tài lạ này khiến cho dân làng càng tin ông là con của thần, bởi vì người thường thì làm sao có thể bơi lặn giỏi như thế. Không chỉ có tài về bơi lặn, Đinh Bộ Lĩnh còn là một tài năng quân sự ngay từ thuở còn chăn trâu cắt cỏ. Dưới bóng cờ lau, ông và các bạn thân cùng trang lứa ở Sách Bông như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ đã thao tập, luyện rèn, tập đánh trận giả.

Thấy Đinh Bộ Lĩnh có nhiều tài lạ, các “huynh đệ” chăn trâu tôn làm “vua”, khoanh tay giả làm ngai vàng để rước theo lễ, lấy hoa lau làm cờ cho quân mang phía trước và có các “quan” đi rước ở hai bên, giống như nghi thức rước thiên tử của triều đình. Đội quân trẻ trâu của Đinh Bộ Lĩnh thường “chiến đấu” với đám trẻ trâu ở những làng khác, tiến thoái có quy củ và đánh đâu… thắng đó làm cho “quân địch” vừa sợ vừa phục, khiến Đinh Bộ Lĩnh được tôn vinh “Vạn Thắng Vương”.

danh-tran-gia

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “”Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: “Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn”.

Cờ lau tập trận ở Thung Lau
Mưu lược tài cao thưở ban đầu
Lũ trẻ công kênh làm minh chúa
Ai biết làm vua kẻ chăn trâu

Hoa Lư địa lợi với nhân hòa
Hai đường thủy bộ dễ vào ra
Núi non trùng điệp thành chiến lũy
Sứ quân yên loạn cõi sơn hà

Lên ngôi đế hiệu Đinh Tiên Hoàng
Đất nước an hòa cả giang san
Sánh ngang Hoàng đế vua đất Bắc
Chủ quyền dân tộc được an bang.
(Vua Đinh Tiên Hoàng)

2.2. Dấu tích thưở hàn vi: Đinh Bộ Lĩnh cưỡi rồng vàng vượt qua sông Hoàng Long – được thiên thần bảo hộ từ tấm bé

Khi nhắc đến cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh, người ta thường không thể không nhắc đến hình ảnh rồng vàng.

Những gì người dân chứng kiến được ghi chép lại và truyền sang các đời sau. Lâu dần người đời gọi đó là truyền thuyết.

Sự tích có ghi lại, thuở còn chơi trò cờ lau tập trận, sau khi được khênh kiệu, Đinh Bộ Lĩnh đã dám giết trâu của chú để khao quân. Bị chú cầm gươm lăm lăm đuổi, những tưởng là ông không thoát khỏi cái chết. Thế nhưng ngay sau lời gọi: “Rồng ơi rồng, chở ta qua sông, cứu ta với” thì một con rồng vàng lớn hiện ra, hụp đầu ba lạy như vái, như chào mời rồi ghé sát lưng đón Bộ Lĩnh qua sông. Người chú đang toan đâm thấy vậy sợ hãi, biết cháu mình có chân mệnh đế vương, nên vội quỳ lạy và cắm gươm, nên hiện nay còn lưu lại dấu tích núi Cắm Gươm (còn gọi là núi Vân Sơn.)

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại sự kiện: “người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng (hoàng long) hộ vệ vua”:

Vân Sơn bao bọc đền Đinh Lê
Phù điêu thủy mạc đón người về
Trông xa núi báu gươm còn đó
Hoàng Long uốn lượn giữa Sào Khê
(Vân Sơn)

Rồng vàng không chỉ giúp Bộ Lĩnh thoát khỏi lửa hận của ông chú mà còn chỉ ra những bước đầu tiên để tạo dựng được cơ đồ đế vương: “Trời còn thử thách đại vương dăm ba năm nữa. Cuộc đời, sự nghiệp của đại vương phải trải qua một vòng tròn khép kín: từ rừng ra bể rồi lại về rừng” (Đinh Bộ Lĩnh cưỡi rồng về Cửa Bố).

Ở nơi Hoa Lư, con sông mà Đinh Bộ Lĩnh được rồng vàng hộ mệnh chở bay qua có tên Hoàng Long, còn núi Bái Đính như một con long mã tung bờm lao về phía Bắc ở thế thượng phong:

Hoa Lư kinh thành của đế vương
Mây bay phủ núi lũy biên cương
Hoàng Long dậy sóng ngàn năm ngủ
Long mã truy phong thượng đạo cường

Thiên tôn sư tử phục hướng đông
Văng vẳng trời nam sáo mục đồng
Cờ lau thuở ấy còn soi bóng
Rồng vàng lượn sóng giữa thinh không
(Thành cổ)

co-lau

 Cờ lau thuở ấy còn soi bóng- Rồng vàng lượn sóng giữa thinh không

2.3. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và những lần báo mộng về thiên mệnh với thế gian

Loạn 12 sứ quân là một giai đoạn loạn lạc của lịch sử Việt Nam, xen giữa nhà Ngô và nhà Đinh. Giai đoạn này phát triển mạnh từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Loạn 12 sứ quân (sứ quân có nghĩa là “Vua cai trị”) kéo dài hơn 20 năm (944-968) và kết thúc khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt – nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử.

lich-su

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi về sự kiện này:

“Nam Tấn Vương mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ”

Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét:

[“Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy.“] 

Sách Việt Giám Thông Khảo tổng luận ca ngợi “vua bình được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi,… sáng chế triều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy, kể về mặt dẹp giặc phá địch thì công to lắm”
Từ “căn cứ địa Hoa Lư” này, với “tài năng, thông minh hơn người, dũng lược nhất đời” (theo mô tả của Đại Việt sử ký toàn thư), Đinh Bộ Lĩnh lần lượt khéo léo dùng mưu lược, kế sách để thu phục, hàng phục hoặc xuất quân tấn công tiêu diệt, dẹp xong “loạn sứ quân” vào năm 967.

Các giấc mộng báo về thiên mệnh thống nhất giang sơn của ông xuất hiện không chỉ một lần, như báo cho sứ quân Trần Minh Công biết sự xuất hiện của nhân vật tài năng là Đinh Bộ Lĩnh, báo cho sứ quân Phạm Bạch Hổ biết nên quy thuận vua Đinh vì Đinh Bộ Lĩnh chính là tướng tài đã được trao thiên mệnh. Hoặc có khi đó lại là những giấc mộng báo các vị tướng tài sẽ trợ giúp cho Đinh Bộ Lĩnh lập nên nghiệp lớn như: Ba vị tướng tài ở Thạch Khê, ba vị tướng quân ở Lộng Đình – Kinh Bắc…

Dũng lược tài ba khắp thiên hạ
Sứ quân lần lượt quy phục hàng
Đế nghiệp từ đây soi bóng cả
Bộ Lĩnh cờ lau Đinh Tiên Hoàng
(Quân thành)

de-nghiệp

Đế nghiệp từ đây soi bóng cả-Bộ Lĩnh cờ lau Đinh Tiên Hoàng

2.4. Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, lập kinh đô Hoa Lư: bậc Thiên Tử hành sự thuận theo Thiên Ý, một lòng trung với Trời Xanh, kính Trời, kính Phật.

Trước khi đi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh vào động Thiên lập Kính Thiên Đài cầu thắng giặc:

Thiên Tôn nằm chân núi Dũng Đương
Trấn vũ Hoa Lư đại điện đường
Vua Đinh ứng nghiệm lời cầu nguyện
Tiền tế Kính Thiên đài dâng hương

Oai nghiêm thần đứng tại Long Đình
Rồng chầu một cặp tỏa khí linh
Ngàn năm trấn giữ đất anh kiệt
Trời Nam một dải đất thanh bình.
(Chùa Thiên Tôn)

hoa-lu-5

Cố đô Hoa Lư- ngàn năm trấn giữ đất anh kiệt- Trời Nam một dải đất thanh bình

Năm 968, sau khi bình định 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi xưng hoàng đế, xưng là “Đại Thắng Minh hoàng đế” chọn Hoa Lư làm kinh đô, cho xây cung điện, sắp đặt trăm quan, chế triều nghi, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Hoa Lư trở thành kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam. Nơi đây gắn liền với ba triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và khởi đầu nhà Lý – tính từ vua Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) đến vua Lý Thái Tông.

Hai năm sau khi tôn xưng “Hoàng Đế”, Đinh Tiên Hoàng bỏ niên hiệu của các hoàng đế phong kiến phương Bắc, tự đặt niên hiệu riêng là “Thái Bình” và cho đúc đồng tiền đầu tiên có tên “Thái Bình hưng bảo”. Như vậy, tuy chỉ là vị “đế” thứ ba (sau Lý Nam Đế và Mai Hắc Đế) song Đinh Tiên Hoàng lại là người đầu tiên xưng “Hoàng Đế” xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên của nước ta được triều đình phương Bắc công nhận.

dinh-tien-hoang

Tượng hoàng đế Đinh Tiên Hoàng tại cố đô Hoa Lư

Trong bộ quốc sử uy tín “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Lê Văn Hưu cũng viết về “Thiên ý” này:

[“Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống”] 

2.5. Sấm truyền về số mệnh 12 năm tại vị của vua Đinh Tiên Hoàng và sự chuyển tiếp triều Lê

Đinh Tiên Hoàng ở ngôi 12 năm (từ đầu năm 968 đến cuối năm 979), đến tháng 10 năm Kỷ Mão (979) bị kẻ bề tôi phản nghịch là Đỗ Thích giết, thọ 55 tuổi, con trai ông là Đinh Liễn cũng bị hại cùng vua cha.

trang-do-thich

Theo sách sử chép lại, Đỗ Thích giết vua là để cướp ngôi, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cho biết như sau: “Trước đó Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân, Thích bèn giết chết”.

Theo ghi chép sử sách thì số mệnh Hoàng đế đã được dự báo trước nhiều lần: viên ngọc khuyết góc sáng dưới đáy sông và lời tiên tri của nhà Sư trụ trì chùa Giao Thủy

Trong Đại Việt sử ký tiền biên chép: “Khi vua còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thuỷ, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than rằng: “Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được dài.”

menh-troi

Mệnh trời đã định nẻo xưa- Ngọc khuê dành để đợi chờ đế vương

Duyên gặp gỡ giữa Đinh Bộ Lĩnh với sư trụ trì chùa Giao Thuỷ (chùa Cổ Lễ, Nam Định nay) được Thiên Nam ngữ lục khái lược rõ hơn. Theo đó, khi Đinh Bộ Lĩnh ngược xuôi theo sông đánh cá mưu sinh, bởi có duyên tiền định nên được biết tới ánh hào quang phát dưới sông đã mười hai năm. Sau này, như có mệnh báo trước, nghiệp đế của ông cũng kéo dài 12 năm thì dứt chốn hồng trần.

Mệnh trời đã định nẻo xưa,
Ngọc khuê dành để đợi chờ đế vương.
Thường thường có khí hào quang,
Đêm đêm sáng dậy bên giang trùng trùng.
Bộ Lĩnh hỏi chúng ngư ông,
“Ấy gì mà sáng dưới sông đấy rầy?”
Chúng ngư bèn bảo rằng bây:
Sáng ở sông này đã mười hai năm.

12 năm ngọc nằm dưới đáy sông không ai biết mà lấy được. Vậy mà đến Đinh Bộ Lĩnh, ông tìm được viên ngọc quý ấy.

Như Việt sử diễn âm đời Mạc viết:

Được một báu vàng đem lên,
Đánh phải đầu thuyền khuyết một góc đi.

Chính vì ngọc quý “khuyết một góc” đã trở thành điềm trời định dành cho hậu vận sau này của vị vua tương lai. Sư trụ trì của chùa vốn trước kia làm đạo sĩ tinh thông tướng số, biết nhìn người. Đêm ấy, viên ngọc quý nằm trong giỏ cá “Bỗng sao sáng khắp hòa chiền”. Câu chuyện về viên ngọc mỗi lúc lại một tỏ:

Sáng ngày thầy hỏi trước sau,
Ngọc khuê nghĩ mới đem hầu thầy coi.
Nhìn đi nhìn lại một thôi,
Giờ lâu thầy mới mở lời nói ra.
“Con ta phúc đức thay là,
Ngày sau làm chúa quốc gia trị đời.
Nghĩ hiềm phúc hậu chẳng dài,
Vắn dài có số tượng trời đã chia.

2.6. Câu sấm động nhân gian: Mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên

gieng-ngoc

Giếng Ngọc thiêng ở thành cổ Hoa Lư

Lên ngôi cao trong thiên hạ, đến năm Giáp Tuất (974) đời vua Đinh Tiên Hoàng, tức là 5 năm trước khi xảy ra vụ mưu sát của kẻ phản nghịch, trong dân gian đã có xuất hiện bài sấm, báo trước việc có một người tên Đỗ Thích sau này sẽ sát hại vua và sự nối ngôi của triều Lê:

Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh,
Cạnh đầu đa hoành nhi,
Đạo lộ tuyệt nhân hành,
Thập nhị xưng đại vương,
Thập ác vô nhất liệt,
Thập bát tử đăng tiên,
Kế đô nhập nhị thiên.

Dù câu sấm được cho là xuất hiện ngay trong thời trị vì của Đinh Tiên Hoàng, lại chỉ rõ cả tên kẻ phản nghịch là Đỗ Thích, nhưng vua Đinh vẫn không có biện pháp gì để phòng ngừa dù hậu vận đã được dự báo từ thuở hàn vi. Điều đó có lẽ để cho hậu thế hiểu rằng, số trời đã định ắt khó tránh.

Tháng 11 năm Kỷ Mão (979), đêm ấy vua Đinh Tiên Hoàng ngự tiệc ở điện với quần thần, uống rượu say, nằm ngủ luôn tại bậc thềm của sân điện. Phúc Hầu Hoằng là Đỗ Thích đã có dã tâm từ trước, ra tay giết vua và giết luôn cả Nam Việt Vương Đinh Liễn.

3. Chuyển tiếp triều Tiền Lê: Chân mệnh đế vương của Lê Đại Hành- tất cả là một vở diễn lớn do Trời Xanh sắp đặt?

Vua Đinh Tiên Hoàng bị sát hại khi tại vị được 12 năm, khi con trai nhỏ Đinh Toàn của nhà vua mới 6 tuổi. Thừa cơ nhà Tống đem quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Thái hậu Dương Vân Nga trước mối an nguy của nước nhà, đã khoác long bào cho Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) lên ngôi Hoàng Đế. Ngài ra trận chống kẻ thù phương bắc và trở về trong khúc khải hoàn, giữ yên bờ cõi Đại Việt.

le-dai-hanh

Tượng vua Lê Đại Hành tại Hoa Lư

Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu, (tức 10 tháng 8 năm 941)

Trong cuộc đánh dẹp 12 sứ quân, ông đã lập được nhiều công lao và được vua Đinh Tiên Hoàng giao chức vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy mười đạo quân), Điện tiền đô chỉ huy sứ – tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.

Khi Lê Hoàn lên ngôi trị vì lấy hiệu là Thiên Phúc năm thứ nhất, giáng Đinh Toàn làm Vệ Vương (tháng 7 năm 980). Tháng 3 năm Tân tỵ (981) quân Tống tiến vào nước ta. Lê Hoàn đã lãnh đạo quân dân Đại Cồ Việt phá quân Tống xâm lược, bằng sau đó trừng phạt quân Chiêm Thành ở phía Nam. Năm nhâm ngọ (982) Lê Đại Hành thân chinh cầm quân đánh quân Chiêm để phạt tội dám bắt giam hai sứ thần nước ta là Từ Mục và Ngô Tử Canh.

Sử sách chép rằng, Lê Hoàn sinh ra trong cảnh “mây ngũ sắc bay đến che phủ, chim bay về đỗ kín cành đa, hươu trong rừng ra cho cậu bú”.

Có lẽ bởi ông có mệnh vương nên đã được bảo trợ từ bé, ngay cả khi còn ở trong bụng mẹ. Bà Đặng Thị mẹ ông mang thai ông rất lâu mà chưa sinh nở, đến nỗi bị xóm làng dị nghị cười chê là hoang thai nên uất ức nhảy xuống sông tự tử. Nhưng lạ thay, bà không biết bơi mà người cứ nổi lên, nước suối lại rẽ ra, rồi như có bàn tay vô hình nâng lên bờ, quần áo vẫn khô nguyên”. Có lẽ vì đứa con trong bụng bà có mệnh thiên tử nên dẫu bà có muốn chết cũng chẳng thể chết được.

Chân mệnh đế vương thuở lọt lòng
Rồng vàng đã ấp ở bên trong
Lê Hoàn Thập Đạo mang chân khí
Trên vai nặng gánh vận non sông.

Vua Đinh tiên đế đã băng hà
Để yên xã tắc với triều ca
Vận nước lâm nguy tôn minh chủ
Thái hậu vua Lê lại một nhà.

Phá Tống bình Chiêm Lê Đại Hành
Ngàn năm còn mãi với sử xanh
An dân dựng nước đầy mưu lược
Hào lũy thung sâu dựng trường thành.
(Vua Lê Đại Hành)

“Vua đánh đâu được đấy: Chém vua Chiêm Thành để rửa mối nhục bị bọn phiên di bắt giữ sứ giả của mình; đánh tan quân của vua nước Tống là người vốn dòng họ Triệu, mau chóng đập tan mưu đồ của họ. Có thể coi vua là đấng anh hùng nhất đời vậy”.
Ngô Sĩ Liên (Đại Việt sử ký toàn thư)

4. Tấm lòng vì xã tắc và nỗi oan khuất thái hậu Dương Vân Nga?

thai-hau-duong-van-nga

Tượng Thái Hậu Dương Vân Nga ở đền thờ vua Lê Đại Hành

Vua Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, con trai nhỏ Đinh Toàn, mới 6 tuổi, nhà Tống thừa cơ đem quân sang xâm lược, thái hậu Dương Vân Nga trước mối an nguy của nước nhà, đã khoác long bào cho Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) lên ngôi Hoàng Đế.

Tuy nhiên, việc Lê Hoàn tiếp ngôi, lập thái hậu Dương Vân Nga làm hoàng hậu, khiến Dương Vân Nga trở thành Hoàng hậu của cả 2 triều Đinh và Lê, nhiều nghi án đã được đặt ra trong hậu thế: Phải chăng Dương Vân Nga và Lê Hoàn câu thông để sát hại Đinh Tiên Hoàng? Khi Lê Hoàn lập Dương Vân Nga làm hoàng hậu, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi rõ: “Vua lập Đại Thắng Minh hoàng hậu triều Đinh làm hoàng hậu”.

Dẫu hậu thế có nặng lời với Lê Đại Hành, nhưng liệu tất cả có phải đều do trời sắp đặt, chọn người anh minh tiếp ngôi để yên ổn xã tắc? Bởi nhắc đến Dương Thái hậu, người ta không thể quên giai thoại khi bà mới sinh. Khi ấy, bà thường hay khóc dạ đề. Một hôm có người đạo sĩ đi qua, ông đọc hai câu thơ khiến cô bé nín bặt:

“ Nín đi thôi, nín đi thôi, một vai gánh vác cả đôi sơn hà”

doi-son-ha

Chú thích ảnh: Lời tiên tri “Nín đi thôi, nín đi thôi, một vai gánh vác cả đôi sơn hà”
Lời tiên tri của ông đạo sĩ ứng nghiệm vào việc bà lấy 2 vị vua là Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Nhưng tấm lòng người trong cuộc, vì non sông, xã tắc, vì muôn dân, hay vì chỉ vì tư tình riêng, sẽ mãi mãi là dấu hỏi cho hậu thế nếu như không được nghe những lời giãi bày của Thái Hậu Dương Vân Nga xuyên qua ngàn năm không gian và thời gian:

duong-van-nga-2

Thái Hậu Dương Vân Nga trao long bào cho vua Lê Đại Hành

Hương lửa đang nồng trâm vỡ tan
Con còn thơ dại giặc ngoại bang
Thế nước lòng dân trời binh lửa
Có hiểu lòng ta hỡi Đinh Hoàng!
Hậu thế nghĩ gì ngôi Thái Hậu
Vân Nga đâu tiếc tấm thân vàng
Vì nước an dân trao ngôi báu
Lê Hoàn dậy sóng thắng lân bang.
(Thái Hậu Dương Vân Nga)

5. Lòng trung quân của các đại thần: để lại ngàn thu một tấm lòng

Thuở nhỏ, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú kết nghĩa anh em, cùng tuổi Giáp Thân, cùng làng- đồng lân đồng Giáp Thân, bốn người được vua Đinh giao cho tứ trụ triều đình.

nguyen-bac

Tượng Nguyễn Bặc tại đền thờ dòng họ Nguyễn

Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, Nguyễn Bặc không tuân phục vua Lê Đại Hành, giữ lòng trung trinh, tiết liệt với vua Đinh. Ông đã cùng tướng Đinh Điền kéo quân về đánh Lê Đại Hành để khôi phục nhà Đinh, nhưng bị thất bại và bị xử tử năm 979.

Hàn vi thuở nhỏ bạn vua Đinh
Kết nghĩa anh em nặng chữ tình
Ai biết trời xanh gây gió bão
Lòng trung Phật tổ có hiển linh
Ngàn năm oanh liệt đức trung thần
Hương khói đền thờ Định Quốc Công
Hoàng Long soi bóng người trung nghĩa
Để lại ngàn thu một tấm lòng
(Đền Thờ Định Quốc Công)

Lòng trung nghĩa của 2 danh tướng: Thả Thanh Trù và Hữu Thanh Trù

Khi Đinh Tiên Hoàng và con trai Thái Việt Vương bị Đỗ Thích sát hại, triều đình nổi loạn, hai tướng Tả Thanh Trù và Hữu Thanh Trù là quan giám sát Đại tướng quân của triều Đinh, bồng ấu chúa Đinh Toàn 6 tuổi trốn vào hang núi. Sau khi ổn định, triều đình cho người đón ấu chúa. Hai tướng ở lại nơi này cho đến lúc mất. Dân làng lập đền thờ Phủ Đột hay còn gọi là đền Trình để tưởng nhớ hai vị trung thần.

den-tho-ta-thanh-tru

Đền thờ hữu tả Thanh Trù ở quần thể di tích Hoa Lư

Nội loạn triều Đinh phò ấu chúa
Ơn vua nghĩa nước cưỡi phong vân
Tràng An sóng nước còn muôn thuở
Hương khói đền xưa tiếc trung thần
Lòng trung sáng mãi cùng nhật nguyệt
Thiên thu còn có với non sông
Hữu tả Thanh Trù người trung liệt
Gió thổi đền thiêng ngọn cờ hồng.
(Đền Trình)

Lòng trung nghĩa của 7 vị danh thần tuẫn tiết theo vua mang theo bí mật ngàn thu ngôi mộ Đinh Tiên Hoàng.

trng

Lòng trung nghĩa của 7 vị danh thần tuẫn tiết theo vua mang theo bí mật ngôi mộ Đinh Tiên Hoàng vào thiên thu

Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễn bị sát hại, triều đình đã lấy 100 cỗ quan tài giống hệt nhau di long bốn hướng. Hậu thế không biết được đâu là ngôi mộ thật của vua Đinh Tiên Hoàng. Sau khi an táng vua, 7 vị danh thần đã tuẫn tiết, đem theo bí mật ngôi mộ của vua Đinh Tiên Hoàng vào thiên thu.

Tuẫn tiết theo vua bảy danh thần
Lòng trung vì nghĩa tiếc gì thân
Khói hương nghi ngút đền Phủ Khống
Ngàn năm con cháu mãi tri ân
(Đền Phủ Khống)

6. Câu chuyện mối oan tình và lòng trung hiếu của công chúa Phất Kim: tôn xưng Tiết liệt trung trinh

cong-chu-phat-kim

Công chúa Phất Kim con gái của Đinh Tiên Hoàng được cha gả cho Ngô Nhật Khánh, một trong mười hai sứ quân mà ông thu phục. Trong khi đi cầu viện vua Chiêm để khôi phục dòng họ Ngô, Nhật Khánh đã ra tay hành hạ và xẻo má vợ trên bãi biển Nam Giới, nay thuộc Hà Tĩnh. Khi Nhật Khánh dẫn hơn 1000 chiến thuyền của quân Chiêm đánh vào đất Việt, quá phẫn uất trước tâm địa của chồng, công chúa Phất Kim đã gieo mình xuống giếng Ngọc ở lầu Vọng Nguyệt, kinh thành Hoa Lư.

Cuộc hôn nhân của công chúa Phất Kim và Ngô Nhật Khánh trong những ngày đầu diễn ra êm ấm và hạnh phúc tới khi Ngô Nhật Khánh được dụ đi cầu viện vua Chiêm về đánh Đại Cồ Việt.

Khi phò mã đô úy Nhật Khánh xin phép vua cha cho mình cùng công chúa Phất Kim đi kinh lý Ái Châu bằng đường thủy và xin phép vua cha cấp năm chiến thuyền hộ tống công chua và phò mã, là khi Nhật Khánh nhận được một bức thư từ sứ thần Nhà Tống gửi. Thuyền xuôi dòng Vân Sàng, qua Ngọc Thỏ cảng,vượt cửa Thần Phù rồi ra biển Đông, Phất Kim hỏi chồng: ” Chúng ta đi đâu?”

Nhật Khánh nghĩ Phất Kim lúc này là phận gái, đã theo chồng nên đáp: ” Chúng ta sẽ vượt qua Nam Giới chạy sang cầu cứu vua Chiêm. Người Tống đưa đường và sẽ giúp chúng ta. Việc thành,nàng sẽ trở thành chính cung hoàng hậu của nước Đại Cồ Việt”.
Không như những gì Ngô Nhật Khánh mong muốn, Phất Kim một lòng cương quyết: [“Không! Chúng ta không bao giờ được phản bội phụ vương, phụ bạc kinh thành Hoa Lư và nước non Đại Việt”.] 

Nhật Khánh lại nói thêm: “hôm vừa qua,viên khách thương nhà Tống đã báo cho ta biết sứ giả nhà Tống đang đợi ta đến yết kiến vua Chiêm. Vua Chiêm có nhiệm vụ cấp cho ta binh lính và chiến thuyền tấn công Đại Cồ Việt bằng đường thủy. Còn về đường bộ,vua Tống đã hứa giúp đội quân mạnh nhất, có nhiều dũng tướng giỏi, đánh bằng được Đại Cồ Việt. Nàng không nghe ta thì sau có hối hận là muộn”.

Công chúa Phất Kim vẫn tha thiết khuyên răn:

[“Thiếp theo lệnh vua cha đã xuất giá để theo minh công. Trọn đời này, kiếp này chỉ biết có minh công mà thôi. Nhưng chàng phải hồi triều, không thể nào phản lại vua cha để mang tội bất hiếu, bất trung và mang tội phản lại dân tộc”.] 

Nhưng lời lẽ thống thiết không làm thay đổi rắp tâm của Ngô Nhật Khánh. Khánh đã rút dao xẻo má công chúa một cách lạnh lùng, tàn nhẫn.

Sách ” Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép: Ngô Nhật Khánh dẫn vợ là công chúa của Đinh Tiên Hoàng đi trốn. Tới cửa biển Nam Giới (tức cửa Sót,Hà Tĩnh), hắn rút dao bên mình ra, xẻo má vợ mà kể tội: Cha mày đã lừa gạt để ức hiếp mẹ con ta. Ta đau lại vì mày mà bỏ qua tội ác của cha mày. Thôi,mày hãy trở về, ta sẽ một thân một mình đi tìm ai có thể cứu được ta đây. . .” Sau đó sang thuyền chiến bên cạnh, hối thúc quân chèo đi, bỏ lại công chúa với người hầu.

Công chúa Phất Kim được đưa về kinh thành Hoa Lư chạy chữa thuốc men, tuy vết thương trên mặt đã lành, nhưng vết sẹo trên má không bao giờ có thể làm nguôi được nỗi đau đớn,tủi nhục trong lòng của một người vợ có chồng là Tướng Quốc, là phò mã, mà lại theo giặc ngoại bang để chống lại vua cha. Phất Kim đã xuống tóc, đi tu trong một ngôi chùa ở kinh đô Hoa Lư. Nàng đau đớn tuyệt vọng, lại phải chịu nỗi đau đớn kinh hoàng nữa là vua cha và anh cả là Đinh Liễn đã bị Đỗ Thích sát hại. Triều đình rối ren, các đại thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lê Hoàn đang dàn quân đánh lẫn nhau. Rồi Đinh Điền, Nguyễn Bặc, hai cựu trung thần và đệ nhất công thần của vua Đinh,vì lòng trung quân mà kéo quân từ Ái Châu về đánh Lê Hoàn, bị Lê Hoàn giết chết cả. Giữa lúc ấy,một tin như sét đánh ngang tai, Ngô Nhật Khánh đang dẫn hơn một nghìn chiến thuyền thủy quân của vua Chiêm, lại có vua Chiêm cùng xuất binh, theo hai cửa biển Đại Ác và Thần Phù vào đánh Đại Cồ Việt thì bị phong ba nổi lên, nhấn chìm hết cả thuyền bè và bị chết đuối. Công chúa Phất Kim đau đớn, xót xa, tủi nhục đến tuyệt vọng. Nàng nhảy xuống giếng trước lầu Vọng Nguyệt, phía tây bắc Kinh thành Hoa Lư tự vẫn.

gieng-ngoc-2

Giếng Ngọc ở cung Vọng Nguyệt cố đô Hoa Lư. Ngàn năm ngọc vỡ hoa rơi rụng. Bóng hồng mây nước giữa Hoàng Long.

Cái chết đau đớn, tiết liệt trung trinh của công chúa Phất Kim làm cả triều đình và dân chúng Hoa Lư vô cùng xúc động. Ai cũng khâm phục nàng: thật hiếm có người phụ nữ trung trinh,đức hạnh và tiết liệt như nàng.

Người dân Hoa Lư lập đền thờ nàng ngay trên nền nhà của cung Vọng Nguyệt. Các triều đại sau đều sắc phong cho nàng là Tiết liệt Trung trinh.

Đền thờ công chúa Phất Kim còn gọi là đền Thục tiết công chúa, phủ Bà Chúa, được xây dựng dưới triều Đinh để tôn thờ tấm lòng trung hiếu, sáng trong, vì nghĩa lớn mà thà chết chứ không chịu theo giặc chống lại vua cha của công chúa Phất Kim.

Bãi bể nương dâu ôm tình hận
Áo mây trả lại chốn khuê phòng
Ngàn năm ngọc vỡ hoa rơi rụng
Bóng hồng mây nước giữa Hoàng Long

Oan trái tình xưa còn giếng Ngọc
Phất Kim công chúa của Kinh thành
Sương khói thu sầu ngày ly biệt
Mây tắm ao trời nước trong xanh
(Hận tình)

Thất Trụ chùa xưa còn có nữa
Phất Kim công chúa của Tiên Hoàng
Đền lạnh gió mưa màu rêu nhạt
Lau mọc chen cành cảnh sơ hoang

Ôm hận nghìn thu rơi lệ ngọc
Trâm tan bình vỡ nước hoa trôi
Xiêm áo còn vương bờ giếng cũ
Duyên tình bi hận nước mắt rơi
(Chùa Thất Trụ)

[Những tấm gương trung hiếu nghĩa đó qua các câu chuyện ngàn năm đọng lại giống như một vở diễn lớn của Trời Xanh, mà những nhân vật lịch sử như những diễn viên dường như đã giúp chúng ta giờ đây hiểu được sự thâm sâu và trọn vẹn của nội hàm thế nào là Trung- Hiếu – Nghĩa, hiểu được khí khái cổ nhân, tấm lòng thành tín chân thật của người xưa xuyên suốt lịch sử và bề dày văn hóa truyền thống dân tộc… Khí phách oai hùng, vì nước, vì dân, vì nghĩa lớn của họ tỏa sáng lấp lánh trong thời đại ngày nay khi con người quay cuồng trong các lợi ích cá nhân, khiến bất giác mỗi người phải thốt lên: “Ngày xưa thật đẹp!”..]

Các bài thơ được lấy từ tập thơ “Hoa Lư thi tập” của Hoàng Quang Thuận

Ảnh internet

Theo daikynguyenvn.com

Chuyên đề:

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc