Home » Danh nhân, Tiêu Điểm, Văn hóa » Ly kỳ chuyện đưa hạt giống “cây ngô” từ Trung Quốc về Việt Nam

Cây ngô đã trở thành ngũ cốc quen thuộc của người dân Việt, nhưng để đưa được giống ngô về Việt Nam là cả một câu chuyện ly kỳ mà không phải ai cũng biết.

cay-ngo-1

Cây ngô. Ảnh internet

Trong dân gian có truyền thuyết rằng Phùng Khắc Khoan là người đầu tiên đưa giống lúa ngô từ Trung Quốc về Việt Nam khi ông đi sứ nhà Minh vào năm 1597.

Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 ở làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạnh Thất, tỉnh Hà Tây. Ông chính là người em cùng mẹ khác cha với người anh là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ông là người học giỏi tài cao, thông hiểu khoa thuật số, lại sống giữa thời loạn lạc nên rất chăm lo cứu dân giúp nước, dân gian vẫn gọi ông là Trạng Bùng (ông sinh ở làng Bùng).

Ly kỳ đưa hạt giống về Việt Nam

Năm 1597 khi đã 70 tuổi ông vẫn được tin tưởng cử đi sứ sang nhà Minh để xin cầu phong cho vua Lê Thế Tông

Khi được cử đi sứ sang Trung Quốc, trên đường đi ông luôn tìm hiểu cách làm ăn của người dân ở mỗi địa phương ông đi qua nhằm khi trở về nước sẽ giúp cho dân mình.

Dạo ấy, vào cuối tháng ba, trên các sườn đồi, sườn núi bạt ngàn, chỗ nào ông cũng thấy trồng một thứ cây xanh ngắt một màu, ông không biết cây gì, lạ lắm, lân la dò hỏi mãi mới biết đó là “ngọc mễ” (tức gạo ngọc), thứ ngũ cốc hạt to gấp mấy lần hạt gạo, ăn thay gạo rất bùi. Ông nghĩ bụng, nhân dân  đây có tới hàng vạn, hàng triệu người sống bằng thứ “gạo ngọc” quý giá này, vậy phải tìm cách đưa về nước trồng.

Cây Ngô ở Trung Quốc gọi là Ngọc Mễ. Ảnh nipic.com

Cây Ngô ở Trung Quốc gọi là Ngọc Mễ. Ảnh nipic.com

Đến kinh thành, nhà Minh có ý khinh thường không tiếp, phái đoán của ông phải nằm trực ở ngoài dịch xá. Phùng Khắc Khoan liền làm 36 bài thơ chúc thọ rồi nhờ quan Tể Tướng tiến dẫn. Đọc thơ, vua Minh Thần Tông hết lời ca ngợi, biết đây là nhân tài hiếm có nên mời mời ông vào gặp mặt.

Nhờ tài năng đối đáp cùng học vấn uyên bác của mình, vua nhà Minh đã nhân nhượng nhiều điều. Lúc sắp về nhà Vua thết đãi ông một bữa yến sào, Phùng Khắc Khoan nói: “Thưa Đức Vua, bấy lâu nay tôi ăn “ngọc mễ” đã quen dạ, xin phép được ăn thay yến”.

Vua Minh sai người đưa hầu ông mọt bát “ngọc mễ” bung. Mọi người ăn tiệc yến vui vẻ, riêng ông vẫn ăn “ngọc mễ” bung ngon lành.

Ông còn xin vua Minh cho đem theo “ngọc mễ” để ăn dọc đường. Vua Minh bằng lòng.

Trên đường về, mỗi ngày ông ăn một bữa, nhịn một bữa dành dụm để đem về làm giống. Nhưng về đến cửa ải Nam Quan, bỗng phía trước có một tốp lính nai nịt gọn gàng, phóng ngựa tới.

Sứ giả nhà Minh lễ phép nói:

–  Thưa tiên sinh! Lệnh nhà vua không cho đem hạt “ngọc mễ” nào ra khỏi biên giới. Đây là pháp lệnh, xin tiên sinh hiểu cho.

Phùng Khắc Khoan lúc này bàng hoàng cả người, không biết phải làm sao vì không lường trước sự việc này, ông muốn đưa giống “ngọc mễ” này về giúp người dân trong nước. Thế nhưng đã gần đến biên giới rồi, không lẽ bây giờ lại phải quay ngược trở lại kinh thành hỏi xin vua Minh hạt giống

Không còn cách nào khác, ông đành bốc lấy một nắm bỏ vàọ túi áo, còn bao nhiêu dỡ cả xuống đường, trước mặt sứ giả, rồi đánh xe đi. Đến quãng đường vắng, ông ra lệnh cho tất cả mọi người dừng lại và nói

– Bên này có giống gạo quý, dễ trồng, thu hoạch cao, thế nào cũng phải đưa về một ít làm giống. Mỗi người phải mang về kì được hai hạt. Các ông lại đây nhận lấy!

Để đảm bảo đưa được hạt giống về nước, ông còn nhấn mạnh: “Đây là quốc pháp, không ai được làm mất. Ai không làm tròn bổn phận, phải chịu tội nặng”. Mọi người loay hoay tìm cách giấu “ngọc mễ”.

Đến cửa ải Nam Quan, lính tráng nhà Minh khám xét rất kỹ, nắn từ đầu đến chân, mở cả hành lí ra. Không tìm thấy gì, viên quan coi ải mới tỏ vẻ nhã nhặn:

–  Thưa tiên sinh! Xin thứ lỗi cho chúng tôi việc làm hồ đồ này. Vả lại đấy là lệnh vua.

Đến lúc qua ải Nam Quan, lúc cửa quan từ từ khép lại, mọi người bỗng thấy mình nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Họ hồ hởi đến nộp lại “ngọc mễ” cho ông. Riêng người lính đi tiền trạm vẻ mặt lo lắng, bần thần. Mọi người đã nộp xong mà anh ta vẫn đứng ì ra đó.

Ông bèn bảo:

–  Nộp đi!

Anh lính lúng túng:

–  Thưa… thưa…!

Ông vội hỏi:

–  Thưa gì? Sao, làm mất rồi hả?

Anh lính sợ hãi thanh minh:

–  Thưa… con đi trước, đến cửa Nam Quan bị khám kĩ quá. Hắn bóp má, nhòm lỗ mũi, vạch lỗ tai, con sợ quá nuốt mất!

Mọi người cười ồ cả lên.

Thế là hạt “ngọc mễ” được đưa vào nước ta từ hồi ấy. Vì giống này lấy từ đất Ngô, nên Phùng Khắc Khoan gọi là “cây ngô”. Cũng chính ông là người nhân giống cây ngô này cho người dân cả nước.

Giá như Phùng Khắc Khoan có thể biết trước được việc nhà Minh không cho phép đưa hạt giống này ra ngoài, để ông dùng tài năng của mình thuyết phục nhà Vua cho đem hạt giống về nước, như thế ông sẽ không phải sử dụng đến cách này để đưa được hạt giống cây ngô về nước.

Mãi về sau này, năm 1723, một vị quan khác là ông Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong (Sơn Tây) khi đi sứ nhà Thanh cũng lấy được một ít hạt “ngọc mễ” mang về trồng.

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Dạy dân trồng trọt và nông nghiệp, truyền lại nghề thủ công

Ngoài ra Phùng Khắc Khoan cũng rất chăm lo, dạy người dân cách trồng và chăm sóc các loại cây khác. Ông dạy rằng:

Trồng dưa chớ để mùa qua

Ngăn phên mắt cáo kẻo gà đạp kê

Quanh vườn thả đậu sừng dê

Mướp trâu dưa chuột bốn bề leo dong

Ông cũng hướng dẫn tìm những loại cây khó tìm

Đỏ tươi chon chót bông dum

Lành đem ngăn ngắt màu um lá chàm

Ông cũng nhọc công sưu tầm được nhiều giống rau, hoa quả với lòng mơ ước:

Ngày nhiều vật lạ của tươi

Che chở nghìn đời, dân ấm dân no

Trong việc đi sứ, ngoài việc lấy được hạt giống ngô về ông còn học được nghề dệt the, lượt. Ông truyền nghề này cho người dân làng Bùng, dệt ra thứ lượt bằng tơ đẹp nổi tiếng được gọi là “lượt Bùng”.

Trong thời gian ở nước ngoài, dù tuổi cao ông vẫn lưu tâm học hỏi về kỹ thuật. Đã nhiều lần ông đến xưởng dệt tơ, tìm cách lưu lại để quan sát rồi kín đáo ghi chép công thức, phương pháp dệt lượt.

Về sau này Lê Quý Đôn có viết trong Kiến văn tiểu lục: Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài bảy mươi, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh vua, mà còn làm mạnh mẽ được thể thống trong nước. Đến như ba mươi vần thơ dâng mừng khánh tiết và hơn mười vần thơ đáp lại chánh phó sứ nước Triều Tiên, tài tứ chứ chan, cách điệu tươi đẹp y như lúc còn trẻ tuổi. Như thế chẳng phải là được linh khí núi sông giúp đỡ đấy ư?”

Ông dạy dân về nông nghiệp, hướng dẫn làm công tác thủy lợi. Chính ông là người cho đào mương tiêu nước lưu cữu quanh núi Thầy, rồi đào mương dẫn nước từ núi Thầy về tưới cho cả vùng Bùng Xá, Đặng Xá, Hoàng Xá. Nhờ vậy, dân làm ruộng quanh năm không bị úng, không bị hạn. Năm 1613, ông lâm bệnh nặng con cháu đến bên giường. Ông mỉm cười và bảo đọc thơ. Một người cháu đã đọc bài “Bệnh trung thư hoài” mà ông đã viết năm 1548 :

Bình sinh chính trực lại trung thành,

Nhật nguyệt nêu cao chí khí mình.

Hạt bút, bốn bề mưa gió động,

Thành thơ, khắp chốn quỷ thần kinh.

Sau khi ông mất, con cháu nghèo quá, nghèo đến mức phải đem bán cả bức tranh truyền thần vẽ chân dung ông! Lúc đem đi bán, có người xin mở ra xem. Xem tranh, người đó kinh ngạc thốt lên: “Hẳn là bức vẽ cụ cố của các ông ngày trước. Nếu muốn bán được giá thì nên tìm đến vị quan đang hiển đạt trong triều mà bán”.

Nghe theo lời, con cháu Phùng Khắc Khoan đến dinh thự của thượng thư Nguyễn Quý Đức và bán được bộn tiền. Có một điều lạ là trước lúc xảy ra chuyện này, quan thượng thư đã nằm mộng thấy Phùng Khắc Khoan đến báo trước! Khi nhìn thấy tranh, Nguyễn Quý Đức khen ngợi mãi không thôi và cảm kích xin triều đình cấp thêm ruộng tự cho cháu Phùng Khắc Khoan để phụ vào việc thờ cúng hàng năm. Điều này cho thấy, dù sinh thời làm quan ngất ngưỡng danh vọng, nhưng ông Tổ nghề dệt lượt đã sống rất trong sạch.

Trần Hưng

Theo trithucvn.net


Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc