Năm 1257 tin tức về đại quân Mông Cổ đang chuẩn bị các bước tiến đánh Đại Việt dồn dập báo về Thăng Long, cả nước đang chuẩn bị cuộc chiến chống lại đội quân hiếu nhiến nhất lịch sử.
>> Trần Quốc Tuấn được trao đội quân tinh nhuệ nhất sử Việt để lấy ngôi Vua (phần 1)
Tiết chế binh mã
Trong Triều đình, chức Tiết chế vẫn chưa có ai nắm, Trần Quốc Tuấn dù được chỉ định nhưng nhà Vua do dự chưa ban chiếu chỉ, dù thế ai cũng biết rằng Trấn Quốc Tuấn là người hợp nhất, đội quân Ngũ Yên là lực lượng tinh nhuệ bậc nhất trong lịch sử, nhưng trong Hoàng thân nhiều người còn rất nghi ngại Trần Quốc Tuấn có thể theo lời trăng trối của cha mà làm cuộc binh biến cướp ngôi Vua.
Tháng 8 năm 1257, thủ lĩnh đạo dân binh, trấn thủ biên giới là Hà Khuất khẩn cấp báo tin tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hơp Thai dàn đại quân ở biên giới, uy hiếp, đe dọa, sai sứ giả đến chiêu hàng.
Trong cuộc thiết triều tướng quân Lê Tần dẫn đầu một số tướng lĩnh muốn Trần Quốc Tuấn lĩnh ấn Tiết chế; thế nhưng một số Hoàng thân bị ám ảnh bởi lời di chúc thì muốn Thái sư Trần Thủ Độ lĩnh ấn tiết chế; trong khi đó ý vua Trần Thái Tông muốn Trần Quốc Tuấn lĩnh ấn Tiết chế thì mới thắng nổi giặc, hơn nữa nếu để Trần Thủ Độ hay bất kỳ ai khác lĩnh ấn Tiết chế thì chỉ có thể điều được quân triều đình, còn lực lượng Ngũ Yên hữu dụng và tinh nhuệ bậc nhất thì không thể điều động nổi.
Trong buổi thiết triều này Vua cùng triều thần đã tính toán cắt cử người tiếp Sứ giả quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai cử sang.
Sau cuộc thiết triều, vua Trần Thái Tông rất lo lắng, quân Mông Cổ sắp đến, ba quân đề xuất cần người Tiết chế, dù Vua muốn Trần Quốc Tuấn nắm chức vị này, nhưng trước áp lực của Trần Thủ Độ khiến Vua cũng chưa biết phải quyết thế nào.
Lá số Thánh Nhân bất bại
Cuốn “Đông A di sự” có ghi chép rằng: Lúc này Huệ Túc Phu Nhân mới mở lời nói rằng có thể xem lá số tử vi của Trần Quốc Tuấn để xem thế nào. Nhà Vua mới cho biết giờ sinh của Trần Quốc Tuấn là giờ Mùi, ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1232)
Đến đây cần nói rõ một điều, trong sử sách không có ghi chép về năm sinh của Trần Quốc Tuấn, nhà tử vi trong nước là cụ Thiên Lương đã căn cứ theo các dữ kiện cuộc đời của Trần Quốc Tuấn mà đoán ông sinh vào giờ ngọ ngày 30 tháng chạp năm mậu tý (1228).
Cuốn “Đông A di sự” nêu chính xác các sự kiện nhà Trần do chính người trong cuộc ghi chép lại, đến đây cũng cần trả lại năm sinh của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cho lịch sử: ông sinh vào giờ giờ Mùi, ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1232).
Trước đây mỗi khi xem tử vi cho ai, Huệ Túc Phu Nhân chỉ cần bấm ngón tay là định sao nói rõ số mệnh rồi, nhưng lần này liên quan đến vận mệnh Giang Sơn Xã Tắc nên Huệ Túc Phu Nhân rất cẩn thận cầm bút chấm lá số rất chi tiết.
Rồi Huệ Túc Phu Nhân nói với Vua rằng tuổi nhân thìn thuộc mệnh thủy, cung mệnh lại nằm ở hợi cũng là hành thủy, nơi lập mệnh là nơi chỗ đứng con người, cùng là hành thủy nên cuộc đời lúc nào cũng được thuận tiện.
Cục là bước đi dài ngắn khác nhau, lá số này thuộc kim cục, mà kim sinh thủy, nên cục sinh mệnh lại đồng thời cũng sinh ra hành của cung mệnh, thì từ bản chất, tới chỗ đứng, được bước đi sinh ra. Như vậy không bao giờ thất bại, cũng không bao giờ chết bất đắc kỳ tử. Nếu trao bình quyền cho người này thì chỉ có thắng hoặc hòa chứ không bao giờ bại.
Lời của Phu Nhân khiến nhà Vua thở dài nhẹ nhõm, trút bớt được gánh nặng.
Huệ Túc Phu Nhân nói tiếp: “Tử vi, Thất sát thủ mệnh, được Hóa quyền, Văn khúc, Trường sinh phù tá thì đây là số của một bậc tể thần, làm lên sự nghiệp vang lừng khắp hoàn vũ, muôn dân trông chờ, nghìn vạn năm sau còn tôn kính. Nói khác đi, mệnh của vương là mệnh của bậc thánh nhân. Như vậy thì bệ hạ còn trì nghi gì nữa mà không ban chỉ trao quyền Tiết chế cho vương, để vương kịp thời chuẩn bị phá giặc.”
Thấy nhà Vua vẫn chưa hết lo lắng, đoán được điều gì, Huệ Túc Phu NHân nói tiếp: “Bệ hạ sợ trao binh quyền cho vương, rồi vương cướp ngôi vua ư? Nhất định không có. Nếu như vương cướp ngôi, thì muôn nghìn năm sau, sử xanh còn chép vương là một gian thần tặc tử. Trong khi số của vương là số đại anh hùng, đại thánh nhân…Thì nhất định không có việc vương cướp ngôi rồi.”
Huệ Túc Phu Nhân ra tay, Thái sư Trần Thủ Độ cũng đành chịu
Trước buổi thiết triều một ngày, Huệ Túc Phu Nhân đã trao một tờ “hoa tiên” cho Trần Thủ Độ rồi nói rằng: “Tôi mới làm một bài thơ mừng tuổi thọ của Thượng phụ. Rất mong Thượng phụ thu nhận”.
Trần Thủ Độ nhận “hoa tiên” rời khỏi hoàng thành rồi mở ra đọc: “ Hôm trước Thượng phụ thua cuộc, có hứa làm theo tôi ba việc. Việc thứ nhất là cho gia đình tôi kiều ngụ ở Đại Việt. Bây giờ tôi xin yêu cầu điều thứ nhì, mong Thượng phụ thực hiện. Đó là: Mai này Hoàng Thượng chỉ định ai lĩnh chức Tiết chế thống quốc binh sự, xin Thái sư đừng cản trở”.
(Xem bài: Ly kỳ chuyện người đã giúp Trần Quốc Tuấn giữ chức “Quốc Công Tiết Chế” đánh bại quân Nguyên Mông)
Vào buổi thiết triều, Thái sư Trần Thủ Độ hiến kế là nên dàn quân chuẩn bị trước, rồi cho gọt tóc Sứ giả rồi cho về nhằm hạ nhục Mông Cổ. Ngột Lương Hợp Thai bị hạ nhục như thế sẽ uất lên mà đem quân đánh gấp. Phàm khi ra quân mà tướng cáu giận dễ ra các quyết định lầm lẫn mà bị đánh bại.
Tướng quân Lê Tần nhắc lại ý cần phải cử một vị là Tiết chế quân mã, nhiều người tán thành.
Vua Trần Thái Tông nhìn mọi người một lượt rồi nói: “Suốt mấy ngày qua, trẫm đã suy nghĩ kỹ. Lại xét số Tử vi, khấn các vị tiên hiền Đại Việt phù hộ. Nay trẫm quyết định”.
Gần hai trăm người thiết triều ai cũng hồi hộp, không một tiếng động, nhà Vua bước đến bên trao thanh bảo kiếm cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rồi tuyên bố:
– Kể từ lúc này, Hưng Đạo vương là Tiết chế toàn bộ binh mã Đại Việt. Khi mang thanh kiếm này thì vương là trẫm. Mọi mệnh lệnh vương ban ra là lệnh của trẫm
Nhiều người nhẹ nhõm hân hoan; Trần Thủ Độ cùng một số Hoàng thân cau mặt, nhưng cũng không biết phải làm sao vì Huệ Túc Phu Nhân đã dặn trước ông ta phải thực hiện lời hứa thứ hai là khi Hoàng Thượng tuyên bố ai giữ chức Tiết chế thì không được cản trở.
Nhưng Trần Thủ Độ cũng nhớ lại lúc mình thử tài Huệ Túc Khi Nhân khi mà phu nhân đang xem tử vi cho tôn thất nhà Trần, thì đứa trẻ này tài giỏi đến kinh ngạc, không chỉ biết kẻ làm vườn là Thái sư giả dạng, mà còn nói chính xác cuộc đời của mình, điều này cũng giúp trấn an Trần Thủ Độ, vì một người như thế dùng tử vi để chọn Trần Hưng Đạo hy vọng sẽ không thể nhầm.
Còn việc để phòng binh biến nếu Trần Hưng Đạo thực hiện di chúc của cha thì Trần Thủ Độ đã có cách khác.
Tân “Tiết chế” đưa ra kế sách chống giặc
Hôm sau tại buổi nghị triều tại điện Uy Viễn diễn ra vào tháng 8 năm 1257 (âm lịch), các tướng cùng bàn kế chống quân Mông Cổ, mọi người đều mong ngóng tân Tiết chế đưa ra kế sách.
Hưng Đạo Vương năm ấy mới 25 tuổi, hướng vào triều thần nêu cách chống giặc của mình: “Phàm ra quân, phải sử dụng ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. May mắn thay nhân hòa ta đã đạt được từ lâu rồi. Hiện cả nước đang chờ phá giặc.
Thứ nhì là thiên thời. Nếu bây giờ ta sai cắt mũi 3 tên bồi sứ họ Trịnh, rồi thả về (tức đây là cách hạ nhục Sứ giả Mông Cổ) như Thái sư bàn hôm trước, dĩ nhiên ta chọc cho Ngột Lương Hợp Thai nổi giận, đến mất bình tĩnh. Y sẽ xua quân tràn vào đánh ta trong tháng 9. Thế nhưng, khí hậu tháng 9 đến tháng chạp là mùa lạnh. Thiên thời đối với quân ta thực bất lợi. Vì quân ta chịu lạnh dở. Ngược lại, khí hậu này lợi cho quân Mông cổ, vì chúng sống ở vùng Thảo nguyên, khí hậu lạnh cắt da, xé thịt; khí hậu của ta đối với chúng là khí hậu mát mẻ, người ngựa của chúng sẽ cảm thấy dễ chịu.”
Triều thần nghe đến đây ai cũng thấy điều này rất hợp lý, kể cả vua Trần Thái Tông và Thái sư Trần Thủ Độ.
Trần Hưng Đạo tiếp lời: “Vậy ta cứ giữ bí mật việc tống giam sứ, để Ngột Lương Hợp Thai mỏi mắt chờ. Hết tháng chín không thấy sứ về, y lại sai sứ sang nữa. Ta cũng bắt giam. Sang tháng 10 không thấy sứ về, y có thể sai sứ sang nữa. Ta lại bắt giam. Như vậy y có xuất quân cũng phải sang cuối tháng Chạp. Ta chỉ cần cầm cự vài tháng, khí hậu trở thành ấm áp với ta, trở thành ôn nhiệt với Mông cổ. Thế là ta đạt được thiên thời.
Về địa lợi. Ưu điểm của giặc là Kỵ binh xung trận, là phá thành. Vậy ta không thủ thành, cũng chẳng dàn quân. Ta cần dụ cho giặc vào sâu trong nước. Trước hết, triều đình cần rời khỏi Thăng long, ẩn vào sống với dân. Mỗi bộ ẩn vào một thôn xã khác nhau, luôn di chuyển, để giặc không biết tung tích. Ta dùng chim ưng liên lạc với nhau. Gia đình các đại thần, các võ tướng, ai ở đâu, thì đưa về quê mình sống với dân chúng. Như thế các quan yên tâm phá giặc, không phải vướng vít thê nhi”.
Đến đây các triều thần đều đồng tình với kế sách của Hưng Đạo Vương, kể cả những ai trước đây vốn không đồng tình để ông giữ chức Tiết chế.
Thế nhưng nhằm đề phòng Hưng Đạo Vương có thể tạo biến theo di chúc của cha, Thái sư Trần Thủ Độ tìm cách chỉ để cho Hưng Đạo Vương tiết chế ba quân chống giặc, thực hiện theo đúng kế sách của ông, nhưng lại ngăn không cho Hưng Đạo Vương trực tiếp chỉ huy quân triều đình
Vì thế trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất, Hưng Đạo Vương đề ra toàn bộ kế sách chống giặc, trao binh phù cắt cử các tướng đi trấn giữ các nơi, nhưng bản thân ông lại không trực tiếp chỉ huy cánh quân nào cả.
Đại Việt thực hiện theo đúng kế hoạch của Hưng Đạo Vương
Những diễn biến trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất cũng cho thấy, mọi việc đều diễn ra đúng với kế hoạch của Hưng Đạo Vương.
Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” dẫn tham khảo từ sách “Nguyên sử loại biên” và sách “Cương mục tục biên” của Trung Quốc chép rằng: “Năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai đã bình được nước Đại Lý, kéo quân sang nước ta, ba lần sai sứ đến dụ nhà vua đầu hàng, đều không thấy sứ thần trở về, bấy giờ mới chia đường tiến quân, nhân thế thắng, kéo vào đô thành nước ta, khi vào, thấy ba người sứ sai sang trước còn bị giam ở trong ngục”
Các nghiên cứ cũng cho rằng sứ giả quân Mông Cổ hống hách ngang tàng nên bị vua Trần bắt giam lại, thể hiện nhà Trần không sợ Mông Cổ mà sẵn sáng chuẩn bị cuộc chiến giữ nước. Nhưng thực ra đó không phải là hành động nhất thời mà toàn bộ đều nằm trong kế hoạch tính toán cẩn thận trước đó của Hưng Đạo Vương:
“Khí hậu tháng 9 đến tháng chạp là mùa lạnh. Thiên thời đối với quân ta thực bất lợi. Vì quân ta chịu lạnh dở. Ngược lại, khí hậu này lợi cho quân Mông cổ, vì chúng sống ở vùng Thảo nguyên, khí hậu lạnh cắt da, xé thịt; khí hậu của ta đối với chúng là khí hậu mát mẻ, người ngựa của chúng sẽ cảm thấy dễ chịu.”
“Ta cứ giữ bí mật việc tống giam sứ, để Ngột Lương Hợp Thai mỏi mắt chờ. Hết tháng chín không thấy sứ về, y lại sai sứ sang nữa. Ta cũng bắt giam. Sang tháng 10 không thấy sứ về, y có thể sai sứ sang nữa. Ta lại bắt giam. Như vậy y có xuất quân cũng phải sang cuối tháng Chạp. Ta chỉ cần cầm cự vài tháng, khí hậu trở thành ấm áp với ta, trở thành ôn nhiệt với Mông cổ. Thế là ta đạt được thiên thời”
Hưng Đạo Vương đưa ra kế tống giam Sứ giả nhằm kéo dài thời gian, không để quân Mông Cổ tiến binh vào mùa đông giá rét, đến cuối tháng chạp quân Mông Cổ mới tiến sang, lúc này thời tiết đã cuối đông chuẩn bị sang xuân nên ấm áp tất cả diễn biến này đều nằm trong kế hoạch tính toán trước của Hưng Đạo Vương.
Khi quân Mông Cổ đến, để tránh thế giặc mạnh ban đầu, quân Đại Việt tạm thời rút đi đợi sau này phản công, cũng nằm trong kế hoạch trước đó của Hưng Đạo Vương.
Khi quân Mông Cổ tiến sang, quân nhà Trần tập trung đông ở Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) chặn giặc, quân nhà Trần có vua Trần Thái Tông cùng tướng quân Lê Tần chỉ huy.
Việc tập trung quân tại Bình Lệ Nguyên là theo kế hoạch của Hưng Đạo Vương, theo kế hoạch này quân Đại Việt sẽ đánh một trận nhằm tiêu hao bớt sinh lực và nhuệ khí quân Mông Cổ rồi rút lui nhằm dụ quân Mông Cổ tiến sâu .
Tuy nhiên vua Trần Thái Tông cùng toàn quân rất hăng hái định đến cùng, dù ưu thế đang nghiêng dần về phía quân Mông Cổ. Tướng quân Lê Tần có công lớn hộ giá nhà Vua, đồng thời nhắc nhở nhà Vua cần lên thuyền rút đi: “Nếu bây giờ bệ hạ làm như thế, thì chỉ như người dốc hết túi tiền để đánh nốt tiếng bạc mà thôi. Tôi tưởng hãy nên lánh đi, không nên khinh thường mà nghe người ta được” (theo Cương Mục).
Chính công lao này mà sau chiến thắng, Lê Tần được đổi tên thành Lê Phụ Trần – tức họ Lê mà có công với nhà Trần.
Sự trung thành sự đội quân Ngũ Yên
Quân Mông Cổ đuổi theo vua Trần và chạm trán với quân Ngũ Yên ở Phù Lỗ. Nơi đây Trần Tử Đức cùng vợ là Bùi Thiệu Hoa và em gái là Trần Ý Ninh chỉ huy một nhóm quân Ngũ Yên chặn quân Mông Cổ tiến vào thành Thăng Long, để cho quân chủ lực và dân chúng trong kinh thành có thời gian di tản.
Tại đây quân Mông Cổ bị chặn đứng, quân Ngũ Yên dù rất ít nhưng lại vô cùng tinh nhuệ khiến quân Mổng Cổ lần nào tiến đến cũng bị đẩy lùi.
Sốt ruột vì lo vua Trần chạy thoát, Ngột Lương Hợp Thai dốc toàn quân tấn công, nhưng đội quân Ngũ Yên vẫn vừng vàng đẩy lui quân Mông Cổ. Đội quân từng tung hoàng ngang dọc từ Á sang Âu, gây kinh hoàng khắp nơi, nhưng bị bất lực hoàn toàn trước một nhóm quân Ngũ Yên.
Sau hơn 10 ngày chặn được giặc, Trần Tử Đức cho vợ cùng em gái đem theo đa phần quân sĩ rút , còn mình thì ở lại chặn giặc, nhận thấy quân Mông Cổ đã tràn ngập khắp cả chiến lũy, ông đã tuẫn quốc khi đã hoàn thành nhiệm vụ.
Phu nhân Bùi Thiệu Hoa sau khi rút lui thì được tin chồng đã tuẫn quốc thì đã làm lế tế chồng, rồi tự tử chết theo phu quân.
Sự quả cảm của tướng sĩ trong đội quân Ngũ Yên đã cho thấy sự trung thành của họ đối với Giang Sơn và triều đình. Vua TRần Thái Tông đã phong cho Trần Tử Đức như sau:
Dao thụ Thái Phó,
Phụ quốc thượng tướng quân,
Kinh Bắc tiết độ sứ,
Quan sát sứ,
Xử trí xứ,
Minh tâm tĩnh lự công thần.
Nghĩa-hòa vương.
Còn phu nhân Bùi Thiệu Hoa được phong là : “Hiếu Khang, Linh Anh, Trinh Nhất công chúa”
Còn Trần Ý Ninh được phong là “Hồng Đức, Trang Duệ, Vũ Thắng công chúa” được gả cho hoàng tử con trai vua Thái Tông là Vũ Uy Vương.
Sau này Trần Ý Ninh sinh ra Trần Quốc Toản. Trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai Trần Quốc Toản vì còn nhỏ không được tham gia, nên đã lập đội gia binh với lá cờ thêu 6 chữ vàng “phá cường địch báo Hoàng ân”.
Quân Đại Việt đều thực hiện theo đúng kế hoạch của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Có thể nói rằng người có công lao lớn nhất giúp Đại Việt ba lần đánh tan đội quân mạnh nhất thế giới Mông Cổ chính là Trần Quốc Tuấn.
Năm 1264 Thái sư Trần Thủ Độ qua đời. Năm 1283 quân Mông Cổ đe dọa lần thứ 2 tiến đánh Đại Việt, lúc này sự trung thành của Hưng Đạo Vương cùng đội quân Ngũ Yên với Giang Sơn Xã Tắc và triều đình đã khiến mọi người đều tin tưởng. hượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông phong Hưng Đạo Vương làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước.
Trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ 2 năm 1285 và lần thứ 3 (năm 1287-1288), mỗi lần Mông Cổ đều đưa 50 vạn quân sang. Như vậ trong 3 năm Đại Việt phải đối mặt với 100 vạn đội quân tinh huệ và hiếu chiến nhất thế giới lúc bấy giờ.
Hưng Đạo Vương nhiều lần nghe nhắc nhở về lời trăng trối của cha khi xưa, nhưng ông bỏ ngoài tai hết cả, kể cả lời nhắc của con trai và người thân về thú nhà. Trong hoàn cảnh đất nước rơi vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc, ông luôn đặt Giang Sơn và dân tộc lên trên hết, lần lượt đánh tan đội quân Mông Cổ hùng mạnh
Đúng như lời Huệ Túc Phu Nhân nói khi cấm lá số của ông: “đây là số của một bậc tể thần, làm lên sự nghiệp vang lừng khắp hoàn vũ, muôn dân trông chờ, nghìn vạn năm sau còn tôn kính. Nói khác đi, mệnh của vương là mệnh của bậc thánh nhân”
“Bệ hạ sợ trao binh quyền cho vương, rồi vương cướp ngôi vua ư? Nhất định không có. Nếu như vương cướp ngôi, thì muôn nghìn năm sau, sử xanh còn chép vương là một gian thần tặc tử. Trong khi số của vương là số đại anh hùng, đại thánh nhân…Thì nhất định không có việc vương cướp ngôi rồi.”
Trần Hưng
Theo trithucvn.net
Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!