Năm 1257 Chủ trại Quy Hóa tên Hà Khuất cho người cấp báo tin về Thăng Long tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hơp Thai dàn đại quân ở biên giới, uy hiếp, đe dọa, chuẩn bị sai sứ giả đến chiêu hàng.
Tin tức đội quân Mông Cổ hùng bá khắp châu Á sang châu Âu sắp đánh Đại Việt nhanh chóng lan khắp Kinh thành, Triều đình lo lắng nghĩ cách đối phó, qua các cuộc nghị triều vẫn chưa thống nhất được ai sẽ làm Tiết chế cầm quân chống giặc.
>> Cội nguồn phát triển tử vi: P1 – Lời tiên đoán khiến cả Triều đình kinh ngạc
>> Cội nguồn phát triển tử vi: P2 – Có thay đổi được số mệnh không?
>> Cội nguồn phát triển tử vi: P3 – Lá số các anh hùng nhà Trần
Triều đình nghi kỵ Hưng Đạo Vương khiến nội bộ mâu thuẫn
Các tướng lĩnh đều muốn Hưng Đạo Vương lĩnh ấn tiết chế, vì Vương là người giỏi binh thư nhất và ai cũng hiểu rõ điều này; vua Trần Thái Tông biết rằng nếu để ai khác lĩnh ấn Tiết chế binh mã sẽ không thể dùng được đội quân Ngũ Yên nổi tiếng tinh nhuệ bậc nhất, mà Hưng Đạo Vương là người nắm giữ đội quân này, vì thế muốn có được đội quân Ngũ Yên thì Hưng Đạo Vương cần phải được phong làm Tiết chế.
Trong khi đó người nắm giữ toàn bộ quân đội là Thái sư Trần Thủ Độ cùng các Hoàng thân lại không dám để Hưng Đạo Vương giữ ấn Tiết chế, đó là do An Sinh vương Trần Liễu trước khi mất đã trăng trối lại với Hưng Đạo Vương rằng: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”, đồng thời còn để lại cho Vương đội quân Ngũ yên tinh nhuệ nhằm đoạt được thiên hạ.
Vua Trần Thái Tông có phần tin tưởng Hưng Đạo Vương và muốn có đội quân Ngũ Yên, nhưng vẫn lo lắng bởi lời trăng tối của An Sinh Vương, vì thế mà trong một buổi thiết triều đã công bố sẽ giao cho Hưng Đạo Vương làm Tiết chế, nhưng do áp lực từ Trần Thủ Đô cùng các Hoàng thân mà sau đó không ban chiếu chỉ hay kiếm báu tiết chế, vì thế mức chức Tiết chế của Hưng Đạo Vương chỉ là “trang trí cho đẹp”.
Trong các buổi thiết triều, Thái sư Trần Thủ Độ nêu lên kế sách, nhưng các tướng không tỏ thái độ đồng ý hay phản đối, tướng Lê Tần cùng các tướng trẻ yêu cầu phải có người làm Tiết chế binh mã và có ý ủng hộ Hưng Đạo Vương.
Lúc này tình thế khẩn cấp khi quân Mông Cổ chuẩn bị tiến sang, chức Tiết chế binh mã vô cùng quan trọng mà Triều đình nhà Trần cũng vì chuyện này mà mâu thuẫn không thống nhất được.
Lá số tử vi Hưng Đạo Vương
Theo cuốn sách của nhà Trần “Đông A di sự”, Huệ Túc Phu Nhân nói vua Trần Thái Tông rằng tử vi có thể biết người trung hay kẻ gian, nên muốn xem tử vi của Hưng Đạo Vương để biết là người thế nào. Vua Trần Thái Tông cho biết Hưng Đạo Vương sinh ngày 1 tháng 5 năm nhân thìn giờ mùi.
Trước đây mỗi khi xem tử vi cho ai, Huệ Túc Phu Nhân chỉ cần bấm ngón tay là định sao nói rõ số mệnh rồi, nhưng lần này liên quan đến vận mệnh Giang Sơn Xã Tắc nên Huệ Túc Phu Nhân rất cẩn thận cầm bút chấm lá số rất chi tiết.
Rồi Huệ Túc Phu Nhân nói với Vua rằng: Tuổi nhâm thìn, mệnh thuộc thủy. Trong lá số thì mệnh lập tại hợi là cung thủy, kim tứ cục. Như vậy là bản mệnh với cung lập đồng hành, được cục sinh ra. Mệnh là bản chất con người, nơi mệnh lập là chỗ đứng của đời người. Chỗ đứng của đời người, với bản chất cùng một hành, có nghĩa cuộc đời lúc nào cũng thuận tiện. Cục là bước đi dài ngắn khác nhau. Kim sinh thủy. Cục kim sinh ra bản mệnh, sinh ra nơi mệnh lập thì từ bản chất, tới chỗ đứng, được bước đi sinh ra. Như vậy không bao giờ vương thất bại. Không bao giờ chết bất đắc kỳ tử. Nếu trao binh quyền cho vương thì chỉ có thắng hoặc hòa, chứ không bại.
Tử vi, Thất sát thủ mệnh, được Hóa quyền, Văn khúc, Trường sinh phù tá thì đây là số của một bậc tể thần, làm lên sự nghiệp vang lừng khắp hoàn vũ, muôn dân trông chờ, nghìn vạn năm sau còn tôn kính. Nói khác đi, mệnh của vương là mệnh của bậc thánh nhân. Như vậy thì bệ hạ còn nghi gì nữa mà không ban chỉ trao quyền Tiết chế cho vương, để vương kịp thời chuẩn bị phá giặc.
Biết Vua còn có ý lo Hưng Đạo Vương cướp ngôi, Huệ Túc Phu Nhân liền nói: “Bệ hạ sợ trao binh quyền cho vương, rồi vương cướp ngôi vua ư ? Nhất định không có. Nếu như vương cướp ngôi, thì muôn nghìn năm sau, sử xanh còn chép vương là một gian thần tặc tử. Trong khi số của vương là số đại anh hùng, đại thánh nhân…Thì nhất định không có việc vương cướp ngôi rồi”.
Tiết chế binh mã Hưng Đạo Vương
Trước buổi thiết triều một ngày, Huệ Túc Phu Nhân đã trao một tờ “hoa tiên” cho Trần Thủ Độ rồi nói rằng: “Tôi mới làm một bài thơ mừng tuổi thọ của Thượng phụ. Rất mong Thượng phụ thu nhận”.
Trần Thủ Độ nhận “hoa tiên” rời khỏi hoàng thành rồi mở ra đọc: “ Hôm trước Thượng phụ thua cuộc, có hứa làm theo tôi ba việc. Việc thứ nhất là cho gia đình tôi kiều ngụ ở Đại Việt. Bây giờ tôi xin yêu cầu điều thứ nhì, mong Thượng phụ thực hiện. Đó là: Mai này Hoàng Thượng chỉ định ai lĩnh chức Tiết chế thống quốc binh sự, xin Thái sư đừng cản trở”.”
Đến buổi thiết triều, vua Trần Thái Tông nhìn mọi người một lượt rồi nói: “Suốt mấy ngày qua, trẫm đã suy nghĩ kỹ. Lại xét số Tử vi, khấn các vị tiên hiền Đại Việt phù hộ. Nay trẫm quyết định”.
Gần hai trăm người thiết triều ai cũng hồi hộp, không một tiếng động, nhà Vua bước đến bên trao thanh bảo kiếm cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rồi tuyên bố:
– “Kể từ lúc này, Hưng Đạo vương là Tiết chế toàn bộ binh mã Đại Việt. Khi mang thanh kiếm này thì vương là trẫm. Mọi mệnh lệnh vương ban ra là lệnh của trẫm”
Nhiều người nhẹ nhõm hân hoan; Trần Thủ Độ cùng một số Hoàng thân cau mặt, nhưng cũng không biết phải làm sao vì Huệ Túc Phu Nhân đã dặn trước ông ta phải thực hiện lời hứa thứ hai là khi Hoàng Thượng tuyên bố ai giữ chức Tiết chế thì không được cản trở.
Nhưng Trần Thủ Độ cũng nhớ lại lúc mình thử tài Huệ Túc Khi Nhân khi mà phu nhân đang xem tử vi cho tôn thất nhà Trần, thì Huệ Túc Phu Nhân tài giỏi đến kinh ngạc, không chỉ biết kẻ làm vườn là Thái sư giả dạng, mà còn nói chính xác cuộc đời của mình, điều này cũng giúp trấn an Trần Thủ Độ, vì một người như thế dùng tử vi để chọn Trần Hưng Đạo hy vọng sẽ không thể nhầm.
Còn việc để phòng binh biến nếu Trần Hưng Đạo thực hiện di chúc của cha thì Trần Thủ Độ đã có cách khác.
Hôm sau tại buổi nghị triều tại điện Uy Viễn diễn ra vào tháng 8 năm 1257 (âm lịch), các tướng cùng bàn kế chống quân Mông Cổ, mọi người đều mong ngóng tân Tiết chế đưa ra kế sách.
Hưng Đạo Vương năm ấy mới 25 tuổi, hướng vào triều thần nêu cách chống giặc của mình: “Phàm ra quân, phải sử dụng ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. May mắn thay nhân hòa ta đã đạt được từ lâu rồi. Hiện cả nước đang chờ phá giặc.
Thứ nhì là thiên thời. Nếu bây giờ ta sai cắt mũi 3 tên bồi sứ họ Trịnh, rồi thả về (tức đây là cách hạ nhục Sứ giả Mông Cổ) như Thái sư bàn hôm trước, dĩ nhiên ta chọc cho Ngột Lương Hợp Thai nổi giận, đến mất bình tĩnh. Y sẽ xua quân tràn vào đánh ta trong tháng 9. Thế nhưng, khí hậu tháng 9 đến tháng chạp là mùa lạnh. Thiên thời đối với quân ta thực bất lợi. Vì quân ta chịu lạnh dở. Ngược lại, khí hậu này lợi cho quân Mông cổ, vì chúng sống ở vùng Thảo nguyên, khí hậu lạnh cắt da, xé thịt; khí hậu của ta đối với chúng là khí hậu mát mẻ, người ngựa của chúng sẽ cảm thấy dễ chịu.”
Vậy ta cứ giữ bí mật việc tống giam sứ, để Ngột Lương Hợp Thai mỏi mắt chờ. Hết tháng chín không thấy sứ về, y lại sai sứ sang nữa. Ta cũng bắt giam. Sang tháng 10 không thấy sứ về, y có thể sai sứ sang nữa. Ta lại bắt giam. Như vậy y có xuất quân cũng phải sang cuối tháng Chạp. Ta chỉ cần cầm cự vài tháng, khí hậu trở thành ấm áp với ta, trở thành ôn nhiệt với Mông cổ. Thế là ta đạt được thiên thời.
Về địa lợi. Ưu điểm của giặc là Kỵ binh xung trận, là phá thành. Vậy ta không thủ thành, cũng chẳng dàn quân. Ta cần dụ cho giặc vào sâu trong nước. Trước hết, triều đình cần rời khỏi Thăng long, ẩn vào sống với dân. Mỗi bộ ẩn vào một thôn xã khác nhau, luôn di chuyển, để giặc không biết tung tích. Ta dùng chim ưng liên lạc với nhau. Gia đình các đại thần, các võ tướng, ai ở đâu, thì đưa về quê mình sống với dân chúng. Như thế các quan yên tâm phá giặc, không phải vướng vít thê nhi”.
Đến đây các triều thần đều đồng tình với kế sách của Hưng Đạo Vương, kể cả những ai trước đây vốn không đồng tình để ông giữ chức Tiết chế.
Về việc Hưng Đạo Vương được cử làm Tiết chế ngay từ cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất, cuốn Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép rằng: “Tháng 9 (năm 1257), xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Quốc Tuấn”.
Củng cố niềm tin đánh bại đại quân Mông Cổ
Huệ Túc Phu Nhân củng cố niềm tin khi nói với vua Thái Tông: “Thiếp xem tử Vi cho các thiếu niên trong Hoàng Tộc thấy họ đều là các vị anh hùng xã tắc mai sau . Sự nghiệp của Quang Khải, Quốc Tuấn mai sau rực rỡ vô cùng . Số của Quốc Tuấn là số của một vị anh hùng, là bậc thánh nhân chắc không có việc tạo phản đâu . Trong số các vị thái tử, thiếp chỉ lo có số của đệ tứ thái tử Trần Ích Tắc thông minh, nhưng sau này hình khắc lục thân, trôi nổi ….”
Hưng Đạo Vương được cử làm Tiết chế binh mã, Triều đình nhà Trần trên dưới đồng lòng, vì thế mà đánh bại đội quân Mông Cổ.
Khi Hoàng Bính khi đến Thăng Long cũng đã dâng lên 2 cuốn sách là “Tử vi chính nghĩa” và “Triệu Thị minh thuyết tử vi kinh” (đây là cuốn sách do nhà Tống bổ sung qua các trường hợp cụ thể trên cơ sở cuốn “Tử vi chính nghĩa”)
Huệ Túc Phu Nhân đã truyền tử vi cho các tôn thất nhà Trần, dùng tử vi để biết người ngay, kẻ gian để dùng. Từ đó tử vi được lưu truyền trong nhà Trần được gọi là Tử vi Đông A.
Năm 1279 Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống, các năm 1285 cà 1287 quân Mông Cổ thêm 2 lần nữa đưa quân tiến đánh Đại Việt. Vua tôi nhà Trần qua tử vi đã củng cố thêm niềm tin chiến thắng, Hưng Đạo Vương được tin tưởng cử làm Quốc công Tiết chế chỉ huy toàn quân Đại Việt đánh lui đại quân Mông Cổ hùng mạnh nhất, trở thành điểm sáng chói lọi trong lịch sử, khiến cả thế giới cũng phải khâm phục.
Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!