Có bao giờ ta tự hỏi “vì sao trăm sông đều đổ ra biển”? Bởi lẽ biển khi nào cũng nhún nhường thấp hơn, có thể bao dung rộng lớn mà có thể dung nạp hết tất cả.
Trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ, người anh hùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với tấm lòng bao dung như biển lớn, không để tâm trước hiềm khích tư thù riêng. Trong hoàn cảnh đất nước rơi vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc, ông luôn đặt Giang Sơn Xã Tắc lên trên hết, lần lượt 3 lần chỉ huy toàn quân Đại Việt đánh tan đội quân Mông Cổ hùng mạnh.
Không để tâm, xóa tan hiềm khích trong nhà Trần
Cha ông là An Sinh Vương Tần Liễu vì có mối hiềm khích với nhà Trần, trước khi mất đã trăng trối lại rằng: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.”
Thế nhưng khi Giang Sơn đứng trước nạn lớn, vó ngựa quân Mông Cổ sau khi chinh phục khắp thế giới đang dồn dập tiến xuống Đại Việt, ông không còn nhớ đến lời trăng trối xưa kia, dốc lòng cùng toàn quân chống giặc.
Nhận thấy binh sĩ có phần e ngại sự bất hòa giữa mình và Quang Khải. Một hôm trên chiến thuyền trên sông trước đông đảo binh sĩ, Hưng Đạo Vương cởi áo Trần Quang Khải và tắm nước thơm cho ông, từ đó mà xóa tan mối nghi ngờ trong lòng binh sĩ.
Không chỉ thế Hưng Đạo Vương cũng trọng dụng vào trao cơ hội ngay cả với người phạm tội lớn với mình.
Trần Khánh Dư đắc tội lớn với Hưng Đạo Vương
Minh Huệ Vương Trần Phó Duyệt là con của Trần Thủ Huy, và là em cùng cha khác mẹ với Trần Thủ Độ, theo Trần Lý dẹp loạn lập công lớn
Minh Huê Vương có ngươi con trai là Trần Khánh Dư, năm Khánh Dư được 3 tuổi thì Minh Huệ Vương tuẫn quốc. Vua Trần Thái Tông thương tình sau này nhận nuôi Khánh Dư, sau này lớn lên được phong là Nhân Huệ Vương, được tự do ra vào cung, giữ chức Phiêu kị đại tướng quân.
Trần Khánh Dư là người giỏi võ nghệ và có tài cầm quân, nhưng lại là người hiếu sắc. Trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, Trần Khánh Dư được giao trấn giữ vùng phía tây Thăng Long, và đánh thắng quân Mông Cổ liên tiếp 10 trận.
Hưng Đạo Vương có viết hai cuốn là “Binh thư yếu lược” và “Vạn kiếp tông bí truyền thư”, dùng sách này để dạy binh thư cho các tướng nhà Trần. Trần Khánh Dư nhờ giỏi binh pháp nên được giao trọng trách chỉ dạy cho các tướng, ông được xem là người giỏi binh pháp chỉ sau Hưng Đạo Vương. Trần Khánh Dư được giao trọng trách phòng thủ vùng biển biên cương.
Lúc này công chúa Thiên Thụy con vua Trần Thánh Tông đã lớn, Hưng Đạo Vương xin cưới công chúa Thiên Thụy cho con trai là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn và vua Thánh Tông đồng ý. Công chúa trở thành dâu của Hưng Đạo Vương
Một lần Trân Khánh Dư về thành Thăng Long dự yến tiệc, vào nội cung và gặp công chúa Thiên Thụy, Khánh Khánh Dư từ thuở nhỏ được nuôi trong cung nên đã quen biết với công chúa Thiên Thụy từ lâu
Hai anh em gặp nhau nói chuyện rất vui vẻ, nghĩ rằng công chúa đã thuận tình Trần Khánh Dư ngỏ ý muốn gần gũi nhưng công chúa đã có chồng nên tất nhiên không đồng ý, tuy nhiên Trần Khánh Dư đã bất chấp khiến công chúa phải kêu cứu và Trần Khánh Dư bị bắt.
Vào thời đó việc làm của Trần Khánh dư thể hiện sự khi quân và sỉ nhục rất lớn đối với thể diện của Hưng Đạo Vương. Đồng thời Luật nhà Trần đối với tội tư thông bị xử rất nặng, những ai phạm tội đều bị xử tội chết, huống hồ Trần Khánh Dư lại dám phạm tội với công chúa và là dâu của Hưng Đạo Vương.
Nhưng vua Trần Thánh Tông lại niệm tình Trần Khánh Dư có công lao và tài năng nên không muốn xử chết, đồng thời Vua cũng lo nếu không xử chết sẽ làm phật ý Hưng Đạo Vương. Vì thế vua Thánh Tông quyết định xử đánh đến chết, nhưng trong phiên xử Vua lại cho lính cầm gậy đánh Trần Khánh Dư rất mạnh nhưng lại cố ý chúc đầu gậy xuống, vì thế mà lực đánh phần nhiều là vào nền đất, nhờ đó mà qua 100 gậy Trần Khánh Dư vẫn sống.
Theo luật thời đó, nếu qua được 100 gây là trời tha không đến nỗi phải chết, nhờ đó mà Trần Khánh Dư mới được toàn mạng.
Hưng Đạo Vương chẳng để bụng, tấm lòng bao dung giúp Trân Khánh Dư lập công lớn
Nhưng những chuyện như thế khó dấu được Hưng Đạo Vương, nhưng từ đầu đến cuối vụ án này ông không hề có ý gì, thậm chí Trần Khánh Dư nhờ bị đánh nương tay mà sống ông cũng không hề tỏ thái độ gì cả điều này thể hiện sự nhân từ hiếm có của ông. Bởi theo quan niệm thời bấy giờ đây là một việc sỉ nhục rất lớn.
Trần Khánh Dư dù thoát chết nhưng bị mất hết chức tước, bị tịch thu hết điền sản. Nhưng nhờ ấp phong của cha vẫn còn nên ông vê đó cùng bọn tiều phu đốn củi đốt than kiếm kế sinh nhai.
Đến năm 1282 trước tình hình Mông Cổ đánh bại nhà Tống và đang chuẩn bị binh lực tiến đánh Đại Việt, vua Trần Nhân Tông quyết định phục chức cho Trần Khánh Dư, chuyện này được Đại Việt Sử ký Toàn thư mô tả như sau:
“Lúc đó, thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị thần:
” Người kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao?”.
Lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Đến cửa Đại Than thì kịp. Quân hiệu gọi:
“Ông lái ơi, có lệnh vua triệu”.
Khánh Dư trả lời:”Lão là người buôn bán, có việc gì mà phải triệu”.
Quân hiệu trở về tâu thực như thế. Vua bảo:
“Đúng là Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế”. Vua lại sai nội thị đi gọi. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá [đến gặp vua]. Vua nói:
” Nam nhi mà đến nỗi này thì thực là cùng cực rồi”, bèn xuống chiếu tha tội cho ông. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.
Thế nhưng các nhà phân tích lịch sử cho rằng đứng trước đại quân Mông Cổ chuẩn bị tiến sang, vua Trần muốn phục chức cho Trần Khánh Dư nhưng lại lo làm mếch lòng Hưng Đạo Vương, vì thế mà phải làm như “tình cờ” gặp lại.
Chi tiết nay cũng cho thấy vua Trần đánh giá sai Hưng Đạo Vương, bởi ông là người có tấm lòng rộng mở, bao dung như biển lớn, biết nhà Vua muốn Trần Khánh Dư được phục chức, là người giữ chức Quốc Công Tiết Chế ông vui vẻ đồng ý ngay.
Không phụ lòng Trần Khánh Dư lập công lớn
Vân Đồn là một cứ điểm quan trọng trên đường thủy, quân Mông Cổ theo đường thủy tất phải qua đây, thế nhưng Hưng Đạo Vương vẫn để Trần Khánh Dư trấn giữ nơi đây, sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép rằng: “Khánh Dư làm phó tướng ở Vân Đồn, Hưng Đạo vương giao phó cho giữ hết công việc ngoài biên giới“.
Năm 1285 quân Mông Cổ 50 vạn quân Mông Cổ tràn qua biên giới tiến đánh Đại Việt, sau đó 20 vạn của Toa Đô sau khi đán chiêm thành bị sa lầy cũng từ phía nam đánh ngược lên, Đại Việt hai đầu thọ địch, Trần Khánh Dư được phục chức đã sát cánh cùng binh tướng nhà Trần lần đánh lui quân Mông Cổ.
Tháng 12/1287 một lần nữa 50 vạn đại quân Mông Cổ vượt biên giới tiến đánh Đại Việt, Trần Khánh Dư được giao trọng trách trấn giữ Vân Đồn.
Quân Mông Cổ chia làm 3 cánh, trong đó cánh quân thủy đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi tiến vào vùng biển Đại Việt. Ô Mã nhi có 700 chiến thuyền mới đóng cùng 120 chiến thuyền của Hải Nam. Đi theo các chiến thuyền này còn có đội thuyền chở 70 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy.
Quân Đại Việt tổ chức chặn đánh cánh quân thủy của Ô Mã Nhi ở các nơi nhằm tiêu hao bớt ssinh lực địch rồi rút ngay nhằm bảo toàn lực lượng.
Khi Ô Mã Nhi đến Vân Đồn, Trần Khánh Dư chỉ có 100 thuyền, biết không thể chặn được Ô Mã Nhi. Nhưng với nhãn quan của một người giỏi cầm quân, nhận thấy các thuyền của Ô Mã Nhi tiến rất nhanh, các thuyền chở lương năng nề không theo kịp, mà lương thực là tối quan trọng, vì thế Trần Khánh biết không thể chặn được các thuyền của Ô Mã Nhi nên ông có chủ định đánh đội thuyền lương của Trương Văn Hổ.
Thế nhưng Thượng Hoàng Trần Thánh Tông hay tin Trần Khánh Dư không ngăn thủy binh của Ô Mã Nhi thì cả giận, sai Trung sứ đến Vân Đồn triệu Khánh Dư về kinh chịu tội.
Trần Khánh Dư đang chuẩn bị đánh thuyền lương, nếu đi về Kinh chịu tội thì sẽ mất đi cơ hội này nên nói với Trung sứ rằng: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn” (Đại Việt Sử ký Toán thư).
Trần Hưng Đạo hay tin cũng muốn để Trần Khánh Dư lập công, nên ông đã để Trần Khánh Dư có cơ hội. Quả nhiên đúng như Trần Khánh Dư dự đoán, thuyền lương của Trương Văn Hổ đi sau rơi vào trận địa bố trí sẵn và bị đánh tan.
Trương Văn Hổ không còn lựa chọn nào khác, đành cho quân trút hết lương thực xuống sông rồi chạy trốn về Quỳnh Châu (Hải Nam, Trung Quốc ngày nay). 70 vạn thạch lương chỉ trong một trận đánh đã biến mất.
(Xem bài: Sau Trần Hưng Đạo, ai là người có công lớn giúp Đại Việt chiến thắng quân Nguyên lần thứ ba)
Quân Mông Cổ muốn đánh nhanh thắng nhanh, nhưng Hưng Đạo Vương cho các quân chủ lực rút hết khiến quân Mông Cổ không biết vua Trần chạy hướng nào, nếu chia quân ra để truy tìm thì dễ bị gặp quân chủ lực Đại Việt, nếu tập trung quân lại thì không biết vua Trần và quân chủ lực Đại Việt ở đâu mà tiến đánh.
Đánh nhanh thắng nhanh không được, mà đánh lâu dài thì không tìm được lương thực vì Trần Hưng Đạo thực hiện kế “vườn không nhà trống”, còn 70 vạn thạch lương đã bị Trần Khánh Dư diệt sạch.
Trong khi đó các cánh quân nhỏ của Đại Việt liên tục chia nhau ngày đêm tấn công, khiến quân Mông Cổ ăn không ngon ngủ không yên, binh lực cứ tiêu hao dần, lương thực cạn kiệt khiến binh sĩ không còn tinh thần chiến đấu mà chỉ muốn trở về.
Chỉ sau 3 tháng tiến đánh Đại Việt, vào tháng 3/1288 quân Mông Cổ buộc phải rút trở về. Chiến thắng của Trần Khánh Dư tại Vân Đồn trở thành chiến thắng quan trọng nhất giúp Đại Việt đánh bại quân Mông Cổ lần thứ 3.
Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ 3, nếu người có công lớn nhất là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thì người có công lớn thứ hai chính là Trần Khánh Dư.
Nếu không có tấm lòng bao dung bao la như biển lớn của Hưng Đạo Vương thì có lẽ Trần Khánh Dư đã không thể có cơ hội như thế.
Trần Hưng
Theo trithucvn.net
Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!