Các nhà nghiên cứu lịch sử hầu hết đều cho rằng trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn chỉ là một tướng trẻ, chưa trực tiếp cầm quân chỉ huy; những người có công lớn nhất là Lê Tần (nhờ có công nên sau này được đổi thành Lê Phụ Trần) và Thái sư Trần Thủ Độ.
Thế nhưng những ghi chép từ cuốn “Đông A di sự” (đây là cuốn sách chi tiết những sự việc diễn ra dưới triều nhà Trần do chính người trong cuộc ghi chép lại) cho thấy không phải ai khác mà chính Trần Quốc Tuấn mói là người có công lao lớn nhất trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất.
Dù không được trực tiếp cầm quân, nhưng mọi tín toán chiến lược, đường đi nước bước đều do chính Trần Quốc Tuấn đề ra kế hoạch.
Vì sao Sứ giả quân Mông Cổ đến dụ hàng, vua Trần lại có thể ung dung sai người trói lại rồi tống giam với lý do thất lễ, đó không chỉ là dũng khí và quyết tâm chống giặc của nhà Trần, hành động nhất thời của nhà Vua, mà đó đều nằm trong kế hoạch tính toán trước của thiên tài Trần Quốc Tuấn.
Trong lịch sử cũng không có ghi chép ngày sinh của Trần Quốc Tuấn, nhà tử vi trong nước là cụ Thiên Lương dựa vào các dữ kiện để đoán ra ngày sinh của Trần Quốc Tuấn khiến nhiều người mến mộ tử vi tin theo, bài viết này cũng sẽ đưa ra ngày sinh chính xác cùng lá số tử vi của Trần Quốc Tuấn để những ai mến mộ tử vi có cơ hội tìm hiểu.
Năm 1257 quân Mông Cổ đánh chiếm được Đại Lý, quyết định đưa quân tiến đánh Đại Việt, để có bàn đạp từ phía nam đánh Tống.
Nhà Trần chuẩn bị cho cuộc chiến với Mông Cổ, thế nhưng lúc này việc quan trọng nhất là chức Tiết Chế tức Tổng chỉ huy quân đội vẫn chưa tìm được người. Các thân vương và đại thần ai cũng công nhận rằng người tài năng nhất xứng đáng đảm nhận vị trí này là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Thế nhưng nhiều người vẫn còn rất nghi ngại nếu trao chức Tiết chế cho Trần Quốc Tuấn, điều này liên quan đến lời trăng trối của cha ông trước khi mất: “Con không
vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.”
Câu chuyện mối hiềm khích trong nhà Trần
Trong lịch sử triều đại nhà Trần vào giai đoạn đầu, người nắm thực quyền không phải là Vua, mà là Thái Sư Trần Thủ Độ, người có công lớn nhất đối với nhà Trần khi ép Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi phải nhường ngôi cho chồng mình là Trần Cảnh mới 8 tuổi, từ đó lập ra nhà Trần. Quyền lực thực chất nằm trong tay Trần Thủ Độ cho đến khi ông mất vào năm 1264.
Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông, phong Lý Chiêu Hoàng là Chiêu Thánh hoàng hậu, năm 15 tuổi sinh hoàng tử Trần Trịnh nhưng không may chết yểu, sau đó hoàng hậu Chiêu Thánh không thể mang thai lại được nữa.
Năm 1237 vua Trần Thái Tông mãi vẫn chưa có con, điều này khiến nhiều tôn thất nhà Trần lo lắng hậu vận nhà Trần không có người nối dõi. Lúc này anh ruột của Vua Trần Thái Tông là Trần Liễu có vợ là bà Thuận Thiên đang có thai 3 tháng.
Trần Thủ Độ liền ép bà Thuận Thiên phải làm vợ của vua Trần Thái Tông, tức ép Vua phải lấy chị dâu đang mang thai. Sự việc này khiến nhà Vua và anh mình là Trần Liễu đều phản đối kịch liệt không tuân thủ theo.
Nửa đêm nhà Vua cùng hai cận thần trốn nên núi Yên Tử, gặp Quốc Sư Phù Vân là bạn của mình ngỏ ý muốn nương nhờ cửa Phật, Quốc Sư trả lời rằng: “Trên núi không có Phật, mà Phật ở ngay trong tâm ta”.
Lúc này Trần Thủ Độ dẫn quân tìm Vua và cuối cùng gặp được nhà Vua trên núi Yên Tử, nhà Vua nhất quyết không chịu trở về cung. Trần Thủ Đội nói rằng: “Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó” rồi ra lệnh xây ngay cung điện trên núi nơi Vua ở.
Sợ mất sự yên tĩnh nơi tu hành trên núi Yên Tử, Quốc sư Phù Vân khuyên vua trở lại kinh thành và nhờ vậy vua Trần Thái Tông cùng mọi người quay trở lại hoàng cung.
Trần Liễu uất ức vì bị mất vợ, nhân lúc Trần Thủ Độ dẫn quân đi tìm vua liền đem quân của mình đến đánh chiếm kinh thành. Thế nhưng Trần Thủ Độ vốn có rất nhiều kinh nghiệm, nên khi dẫn quân đi tìm Vua đã đề phòng có biến, nên dặn dò sắp đặt trước mọi việc cho các tướng lĩnh giữ thành. Vì thế quân Trần Liễu chưa kịp tới kinh thành thì đã bị bao vây.
Không đủ sức chống lại quân Triều Đình, Trần Liễu bỏ chạy, biết rằng khó thoát tội chết, lại nghĩ rằng bây giờ chỉ có em mình là vua Trần Thái Tông mới cứu được mình, liền hẹn vua ở sông Cái, rồi Trần Liễu đem thân đầu hàng trước Vua. Tới khi gặp Trần Thủ Độ, nhà Vua đem thân mình che chở bảo vệ cho anh mình khiến cho Trần Thủ Độ không làm gì được.
Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông và nói: “Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?”.
Trần Liễu được tha nhưng quân tướng đi theo ông thì bị xử tội chết hết cả, thân tín của ông là Trần Hiến đem toàn quân của phủ An Sinh Vương tiến đánh phủ Thái sư Trần Thủ Độ cũng thất bại, hai vợ chồng Trần Hiến cùng toàn bộ binh tướng của An Sinh Vương Trần Liễu đều bị xử chém.
Đội quân tinh nhuệ bậc nhất trong lịch sử cùng lời trăng trối
Chỉ một mình An Sinh Vương Trần Liễu thoát chết, còn tất cả những ai theo ông đều chết cả, vì thế ông rất yêu thương con cái của những thuộc tướng trung thành với mình.
Ông đưa con trai và gái của Trần Hiến là Trần Tử Đức và Trần Ý Ninh về Ngũ Yên nuôi nấng, yêu thương chăm sóc như con đẻ; con cái của những người khác cũng được ông xem như người một nhà.
Nhận thấy cuộc binh biến của mình thất bại phần lớn là do quân của mình không tinh nhuệ bằng cấm quân của triều đình và quân của Trần Thủ Độ, vì thế Trần Liễu đã tỉm những người giỏi võ công nhất truyền lại cho con cái những người từng theo mình, lập thành đội gia binh của mình, đặc biệt là những đứa trẻ con cái của những thuộc tướng trung thành đã vì mình mà mất.
Với ý định phục thù, Trần Liễu đã xây dựng đội quân Ngũ Yên ngày càng hùng mạnh, hầu hết họ đều được học võ từ tấm bé đến tận khi trưởng thành, vì thế võ công nhiều người đều ở mức thượng thừa.
Trần Liễu từ sớm cũng đã cho con trai của mình là Trần Quốc Tuấn đến kinh thành Thăng Long ăn học ở nhà em gái mình là Thụy Bà công chúa, tìm thầy giỏi về dạy học cho Quốc Tuấn, nhờ đó ngay từ thời trẻ Trần Quố c Tuấn đã giỏi võ và thông thạo binh pháp. Trần Liễu hy vọng rằng Trần Quốc Tuấn có trong tay đội quân tinh nhuệ Ngủ Yên sẽ phục thù được cho mình.
Năm 1251 An Sinh Vương Trần Liễu qua đời, đã trăng trối với Trần Quốc Tuấn rằng: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.”
Sau cha mất, Trần Quốc Tuấn nắm trong tay đội quân tinh nhuệ nhất bấy giờ là Ngũ Yên quân, dù không đông như quân của triều đình, nhưng xét về mặt tổ chức và tinh nhuệ cùng sự trung thành thì không đội quân nào sánh được.
Theo các ghi chép trong sử Việt để lại thì chưa có một đội quân nào đạt được tinh nhuệ như quân Ngũ Yên. Chỉ huy đội quân này là Trần Tử Đức cùng em gái là Trấn Ý Ninh và vợ là Bùi Thiệu Hoa cùng các tướng lĩnh khác, mỗi bậc chỉ huy trong đội quân này đều rất thiện chiến có thể đương đầu với hàng vạn người.
Ai mới xứng đáng vị trí “Tiết chế” – Tổng chỉ huy quân đội?
Khi quân Mông Cổ chiếm được Đại Lý, chuẩn bị đưa quân tiến đánh Đại Việt, lúc này triều đình nhà Trần cũng sôi động bàn kế chuẩn bị đối đầu với đội quân hiếu chiến bậc nhất này, nhiều tướng quân đề xuất với vua Trấn Thái Tông cần phải có một người giữ chức Tiết chế, để chỉ huy toàn quân đối phó với giặc, mà chức Tiết chế hiện chưa có ai đảm nhiệm.
Qua các phiên thiết Triều, ai cũng thấy rằng vị trí Tiết chế này chỉ có Trần Quốc Tuấn là người xứng đáng đảm đương nhất, vì thế nhiều tướng đề cử Trần Quốc Tuấn vào vị trí này, tùy nhiên người nắm giữ quân đội và cũng là người có thực quyền lớn nhất trong Triều là Thái sư Trần Thủ Độ đã không đồng ý.
Trần Thủ Độ lo lắng rằng Trần Quốc Tuấn thực hiện lời trăng trối của cha, nếu nay giữ chức Tiết chế binh mã thì sẽ nhân cơ hội cướp ngôi Vua, vì thế thế mà ông ta cùng các tùy tướng không đồng ý.
Thế nhưng trong một phiên thiết Triều, trước yêu cầu của tướng lĩnh, vua Trần Thái Tông đã phong Trần Quốc Tuấn làm Tiết chế, tức chỉ huy toàn quân đội nhà Trần. Tuy nhiên Vua chỉ tuyên bố, nhưng chưa ban chiếu chỉ, cũng như kiếm báu Tiết chế.
Tuy nhiên trong lịch sử không hề có ghi nhận Trần Quốc Tuấn chỉ huy bất kỳ một trận đánh nào trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần 1, vì thế các nghiên cứu lịch sử cho rằng vào cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn còn là tướng trẻ, chỉ tham gia cuộc chiến chứ không trực tiếp cầm quân.
Thế nhưng thực tế Trần Quốc Tuấn đúng thực là được phong chức Tiết chế, trong Đại Việt Sử Ký Toàn thư có một chi tiết ghi chép rằng: “Tháng 9 (năm 1257), xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Quốc Tuấn”.
Chức “Tiết chế” chỉ là trang trí cho đẹp
Vậy vì sao Trần Quốc Tuấn giữ quyền Tiết chế lại không trực tiếp cầm quân? Trong cuốn “Đông A di sự” có ghi chép câu nói của Vũ Thành Vương tiết lộ điều này.
Trước khi bà Thuận Thiên bị ép gả cho vua Trần Thái Tông, thì đã có người con với Trần Liễu là Trần Doãn, sau được phong là Vũ Thành Vương, là em cùng cha khác mẹ với Trần Quốc Tuấn.
Năm 1248 Thuận Thiên hoàng hậu mất, năm 1251 Trần Liễu cũng qua đời. Cảm thấy không còn cha mẹ nương tựa và thất thế, Vũ Thành Vương đem gia tộc hơn 1.000 người trốn sang nước Tống, nhưng bị người Tống bắt đem trả lại cho Đại Việt.
Nhà Vua hỏi Vũ Thành Vương rằng:
– Người là con của Hiển-Từ thái hậu sinh ra, tước phong tới vương, được trong đãi, thế sao lại bỏ nươc trốn đi?”
– Bỏ nước, bỏ mồ mả tổ tiên, bỏ quê hương, bỏ người thân, lưu lạc xứ người, hỏi mấy ai muốn? Từ khi phụ vương hoăng, anh em thần gạt bỏ hết những thù hận từ tiên vương, để trung thành, bảo vệ vương triều. Nhưng anh em thần vẫn bị nghi ngờ. Từ xưa đến giờ, phàm vua nghi ngờ bầy tôi thì có hai việc xẩy ra. Một là bầy tôi sẽ bị giết, hoặc bầy tôi làm loạn để tự tồn. Thần không đủ can đảm phản bệ hạ, nên phải trốn đi.
– Ta nghi ngờ người? Người bịa đặt ra như vậy sao?
– Bệ hạ thử đặt mình vào hoàn cảnh anh em thần thì thấy ngay. Buổi thiết đại triều trước đây đã nghị trao cho Hưng Đạo vương làm Tiết-chế quân mã. Thế nhưng từ hồi ấy đến giờ chiếu chỉ vẫn chưa ban ra. Bệ hạ phong cho Hưng Đạo vương lĩnh Tiết chế. Cái danh Tiết chế chỉ để trang trí cho đẹp. Quyền của Tiết-chế ra sao? Bốn hạm đội, hiệu Kỵ binh, hiệu Ngưu binh, ba hiệu bộ binh của Ngũ yên sẵn sàng cho triều đình sử dụng. Còn quân của triều đình thì vẫn có Phụ-quốc thái-úy chỉ huy. Trên Phụ-quốc thái úy còn Thái-sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sứ. Thì ra Hưng-Đạo vương lĩnh chức Tiết-chế để đem lực lượng Ngũ-yên trao cho triều đình.
Vương khẳng khái nói lớn:
– Triều Lý đã có Kiến-hải vương Lý Dương Côn chạy sang Cao-ly; Lạng-châu công Lý Long-Phi chạy sang Mông-cổ; Phò-mã Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi chạy sang Mông-cổ; gần đây Kiến-bình vương Lý Long-Tường cũng ra đi. Tất cả những vị đó đều bị oan khuất, các người không muốn chống lại triều đình, muốn ẩn thân cho toàn tính mạng, mà thấy không yên…Nên phải xuất ngoại. Nay thêm thần, thì cũng là sự thường.
Trần Thủ Độ muốn xử tội, nhưng vua Trần Thái Tông tìm cách tha cho Vũ Thành Vương. Từ câu đối đáp của Vũ Thành Vương cho thấy rằng Triều đình phong cho Trần Quốc Tuấn làm Tiết chế được lợi lớn vì tiếp quản và sử dụng đội quân tinh nhuệ Ngũ Yên, nhưng người nắm trong tay toàn quân đội nhà Trần vẫn là Thái sư Trần Thủ Độ, chức Tiết chế của Trần Quốc Tuấn chỉ là “trang trí cho đẹp”. Và vua Trần Thái Tông vẫn chưa ban chiếu chỉ hay trao kiếm báu Tiết chế.
(Còn nữa)
Trần Hưng
Theo trithucvn.net
Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!