Home » Khám Phá, Khoa học » Bộ não và những điều còn chưa biết
Thi thoảng khoa học vẫn có những sai lầm. Với việc thừa nhận những cái sai cơ bản này, toàn bộ những lề lối, giáo điều cần phải được nhận định và xây dựng lại. Điều này càng làm sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
ảnh minh họa từ Shutterstock

ảnh minh họa từ Shutterstock

10 năm trước, khoa học cho rằng sự miễn dịch xuất hiện trong cơ thể và được coi như một “đặc ân” nhưng không hề có ở bộ não. Nếu bộ não cũng có hệ thống miễn dịch thì điều này có ý nghĩa gì? Có phải điều này thay đổi hiểu biết của chúng ta về các căn bệnh tâm thần? Về thần kinh học? Về bệnh ung thư? Về những rủi ro của tác dụng phụ khi sử dụng các loại thuốc hỗ trợ hệ thống miễn dịch như vắc-xin chăng?

Một bài viết có tầm ảnh hưởng mang tựa đề “Các vai trò mới của các phân tử miễn dịch trong sự phát triển thần kinh: liên quan đến sự rối loạn phát triển thần kinh” giúp làm sáng tỏ lịch sử của sự tiến triển này. Giáo điều khoa học cho rằng hệ thống miễn dịch “xâm nhập” bộ não khi chúng ta có bệnh lý hay bị tổn thương nặng. Những quan sát sớm nhất về vai trò của hệ thống miễn dịch ở những bộ não khỏe mạnh bắt nguồn từ các quan sát về sự thương tổn nhận thức ở những con chuột bị suy giảm miễn dịch trầm trọng. Những con chuột này bị cạn kiệt tế bào miễn dịch loại T ở ngoại biên (nhưng hàng rào máu não không bị phá vỡ)

Với sự hoạt động của các chất được gọi là cytokines, bổ thể và các phức hợp như MHC – để nhận dạng các mầm bệnh xâm lấn, sự xuất hiện đơn độc của các chất này đưa ra một cách nghĩ mới về chức năng của bộ não. Cũng vậy, có sự xem xét về thay đổi của mô hình hoạt động hệ miễn dịch qua quá trình phát triển thần kinh với các tác nhân miễn dịch tham gia vào sự phát triển não bộ và quá trình nhận thức.

“Một trong những đặc điểm định nghĩa của phân tử MHC và thụ thể của chúng là tính phức tạp. Cả hai đều có tính đa gien và đa sắc thái – tức chứa nhiều biến thể của mỗi gien. Gien MHC là gien có nhiều hình dạng nhất được biết đến”

… và rốt cuộc chúng ta lại có nhiều câu hỏi hơn câu trả lời.

Chỉ cần nói rằng:

“Mối liên hệ giữa yếu tố môi trường, phản ứng miễn dịch và sự bất thường của hệ thần kinh tại thời điểm này không hoàn toàn rõ ràng nhưng nó đang nhận được ngày càng nhiều sự quan tâm và ủng hộ… Rất nhiều các phân tử miễn dịch có thể đóng vai trò quan trọng với sự phát triển và chức năng hoạt động của hệ thần kinh và điều này thật đáng kinh ngạc. Mặc dù có rất nhiều tiến bộ trong 10 năm qua về nghiên cứu vai trò then chốt của các phân tử miễn dịch trong việc duy trì một bộ não khỏe mạnh, tuy nhiên đa số chúng chưa được tìm hiểu tại sao chúng lại xuất hiện và chức năng của chúng trong bộ não là gì. Chúng ta biết rằng các phân tử miễn dịch rất quan trọng, nhưng thật ra chúng ta không biết gì về cơ chế hoạt động của chúng cả.”

Sự phức tạp trong nhận xét này chỉ nhằm nhấn mạnh việc chúng ta đã bỏ sót biết bao nhiêu khi nghiên cứu hoạt động miễn dịch trong bộ não so với phần cơ thể còn lại. Điều này nói lên rằng, các khái niệm khi bàn về bộ não-miễn dịch là nền móng của các học thuyết hiện đại về các loại bệnh tâm thần liên quan đến cytokine.

Khi khả năng miễn dịch của bộ não không tốt và sự xuất hiện trầm cảm

Một trong những tác dụng phụ có thể tiên đoán được của việc sử dụng thuốc interferon (kháng vi-rút) dùng để điều trị viêm gan C là dẫn đến trầm cảm. Trên thực tế, 45% các bệnh nhân bị trầm cảm khi được điều trị bằng interferon có liên hệ với mức độ tăng cao các cytokines IL-6 và TNF gây viêm. Cytokines cũng có thể được tạo ra bởi lipopolysaccharide (LPS) – là một nội độc tố được sản xuất bởi vi khuẩn gram âm bị lây qua đường miệng. Khi chúng xuất hiện ở động vật có thể gây ra các hội trứng giống trầm cảm. Tuy nhiên ở những con chuột được nghiên cứu bị thiếu IL1-B (một cytokine giúp làm dịu các cơn viêm), chúng được bảo vệ khỏi những triệu chứng như trầm cảm gây ra bởi LPS . (ví dụ không thèm uống nước ngọt). Điều này gợi ý rằng những hoá chất trung gian trong phản ứng viêm có thể là nguyên nhân chính gây ra trầm cảm.

Các cytokines như IL-1, IL-6 và TNF-α mang thông điệp về bệnh tật và việc chúng xuất hiện nhiều có quan hệ với sự trầm cảm. Những cytokine này có thể vượt qua hàng rào máu não và có thể kích thích các dây thần kinh hướng tâm như dây thần kinh phế vị.

Khi ở trong bộ não, trung tâm miễn dịch gọi là vi tế bào thần kinh đệm được kích hoạt nhờ men IDO (indoleamine 2 3-dioxygenase) điều chuyển chất tryptophan (một amino axit) khỏi quá trình sản xuất serotonin (một chất dẫn truyền thần kinh) và melatonin (hóc-môn nội sinh trong cơ thể được tạo ra từ tuyến tùng) về phía sản xuất một chất chủ vận NMDA (N-methyl-D-aspartate) gọi là axit quinolinic.

Tuy nhiên, khi nói về hiện tượng viêm, các hóc-môn cortisol, prolactin và hóc-môn sinh dục thường bị rối loạn hoạt động. Trong quá trình này, sự trầm cảm là biểu hiện của tình trạng hóc-môn cortisol tăng cao trong cơ thể do mức cytokines gây viêm tăng. Điều này có thể giải thích được phần nào hiệu quả của các bài tập trong việc điều trị trầm cảm và yoga hay thiền định trong giảm viêm nhức.

Chúng ta điều tiết miễn dịch như nào?

Nơi có hệ miễn dịch kiểm soát và hoạt động mạnh nhất là ở phần ruột. Khoảng 70% các mô lympho ở thành ruột (GALT), các vi sinh vật thành ruột có tác động đến tế bào báo động của hệ thống miễn dịch là các tế bào đuôi gai (dendritic cells). Những vi sinh vật này gồm chủ yếu khoảng 100 nghìn tỉ vi khuẩn (gấp 10 lần số lượng tế bào ở người), cổ khuẩn (archaea), ký sinh trùng và các vi-rút bao gồm thể thực khuẩn. Chúng trao đổi thông tin di truyền cho nhau và cho chủ thể người và đồng thời thực hiện một số hoạt động như sản xuất các axit béo, các chất dẫn truyền xung động thần kinh (neurotransmitter), vitamin B, tiêu hoá tinh bột, và thậm chí giúp giải độc các chất hóa học môi trường.

Ngoài việc hệ gien vùng vi sinh – hay quần thể vi sinh vật – bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống, đó còn là món quà từ người mẹ trao tặng. Chúng bị ảnh hưởng bởi hệ vi sinh ở ruột người mẹ trong thời kì mang thai, sinh nở, cho bú và thời kì cai sữa.

Có điều gì sai ở bức ảnh này?

Căn cứ vào mối liên kết mà chúng ta vừa nói trên, việc các chất kim loại tan trong mỡ xâm nhập vào máu với các mầm bệnh và các chất phụ gia hóa học làm phá vỡ hàng rào máu não có lẽ cần phải được đánh giá lại. Vắc-xin có thể là ví dụ rõ ràng cho cái gọi là khoa học chối bỏ sự thật (head-in-the-sand science) khi mà không thể kết hợp học thuyết hiện đại về miễn dịch học nội quan – bao gồm ruột, tuyến nội tiết, tuyến thượng thận – cũng như những yêu cầu cá nhân cho một việc như vậy dựa trên di truyền học và dựa trên sự hiểu biết trong môi trường tồn tại trước đó.

Nhôm được sử dụng như một tá dược trong vắc-xin, được bổ sung cho trẻ dưới 2 tuổi khoảng 16 lần. Nó kích hoạt tiểu thần kinh đệm ở bộ não và có liên hệ chặt chẽ với bệnh Alzheimer, Parkinson và rối loạn tự miễn dịch. Đây là một chất độc thần kinh đã được biết đến và là một chất kích thích khả năng miễn dịch. Nhôm được bổ sung bởi vì hệ thống miễn dịch của trẻ mới sinh không gây ra phản ứng phụ. Nó được gọi là kiểu hình kháng viêm và đề cập đến sự ảnh hưởng qua lại mạnh mẽ giữa trẻ sơ sinh, sữa mẹ và sự bổ sung cho hệ thống miễn dịch trong 2 năm đầu tiên sau sinh. Một vài phân tích ủng hộ nguyên nhân nhôm có thể gây ra bệnh tự kỉ, trong đó có một phân tích của Lucija Tomeljenovic và Shaw và một của nhà nghiên cứu MIT là Stephanie Seneff.

Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy trẻ em được tiêm vắc-xin Engerix B phòng bệnh viêm gan B dễ có khả năng phát triển bệnh hủy myelin hệ thống thần kinh trung tâm cao hơn 78% so với trẻ không tiêm vắc-xin và con số này ở bệnh đa xương cứng là hơn 177%.

Đáng lo ngại, một nghiên cứu duy nhất trên động vật linh trưởng được thực hiện với một nhóm chưa được chủng ngừa có kiểm soát. Khi được tiêm vắc-xin viêm gan B có thimerosol (một chất bảo quản vắc-xin chứa thủy ngân), những con vật này cho thấy sự phát triển phản xạ thần kinh bị chậm lại so với nhóm không được tiêm chủng. Nghiên cứu này cùng với các nghiên cứu tương tự cho thấy xác suất trẻ em được tiêm vắc-xin viêm gan B trước năm 2001 phải học chương trình giáo dục đặc biệt cao gấp 9 lần và một nghiên cứu khác cho thấy rủi ro mắc tự kỉ gấp 3 lần so với nhóm không chích. Có thể đây là nguyên nhân dẫn đến việc tách bỏ thimerosol khỏi vắc-xin năm 2001.

Các vắc-xin chứa thimerosol xuất hiện 19 năm trên thị trường trước khi có sự thay đổi (và nó vẫn còn có trong thành phần vắc xin trị cảm cúm và uốn ván). Điều này nêu lên mối lo ngại cho trẻ em khi có sự chậm trễ trong việc loại bỏ những nguy hại liên quan đến những sản phẩm này. Những nguy hại này đã được chứng minh, nhiều trẻ em phải trả một cái giá khá đắt vì những nghiên cứu giả dược lâu dài không đầy đủ.

Có vẻ như vắc xin có thể là một phương thức được cố ý gửi đến hệ thống miễn dịch và bộ não một dấu hiệu có hại.

Liều thuốc thật sự

Để áp dụng phương thuốc mới chúng ta cần biết được những mối quan hệ của phương thuốc liên quan đến cả thân và tâm – một phương thuốc coi trọng những ảnh hưởng của lối sống và môi trường lên biểu hiện gien, một phương thuốc tăng cường hoạt động chức năng tối ưu hơn là chỉ là loại bỏ triệu chứng và tiêu diệt mầm bệnh. Hàng triệu năm phát triển nhưng những gì con người chúng ta hiện nay biết được chỉ là những hạt cát trên sa mạc.

Những quan điểm trong bài là ý kiến của tác giả

*T-cells: Đối với Lymphocyte (tế bào bạch huyết) trong máu, hệ thống miễn dịch của chúng ta gồm những tế bào miễn dịch như sau: T-cells (tế bào T) [trong đó có Killer T-cells (tế bào T tiêu diệt) giúp tiêu diệt các tác nhân có hại bên ngoài xâm nhập cơ thể và Helper T-cells (tế bào T hỗ trợ) làm nhiệm vụ tăng cường hoạt động của hệ miễn dịch] và B-cells (tế bào B)/ Macrophages (đại thực bào) và Natural Killer Cells (tế bào tiêu diệt tự nhiên, viết tắt trong tiếng anh là NK). Những tế bào miễn dịch đó làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ thể và đồng thời tấn công tiêu diệt các tác nhân có hại xâm nhập (Nguồn Internet).

* Cytokine là các protein hay glycoprotein không phải kháng thể được sản xuất và phóng thích bởi các tế bào bạch cầu viêm và một số tế bào khác không phải bạch cầu. Các protein này hoạt động trong vai trò là các chất trung gian điều hòa giữa các tế bào trong cơ thể (Nguồn: Wiki).

* Phức hợp tương thích mô chính (Major Histocompatibility Complex, MHC) hay ở người còn được gọi kháng nguyên bạch cầu người (Human Leucocyte Antigen, HLA) là một nhóm gene mã hoá cho các protein trình diện kháng nguyên trên bề mặt tế bào của đa số động vật có xương sống. Những protein này đóng vai trò quan trọng trong tổ chức miễn dịch của cơ thể cũng như những cơ chế giao tiếp giữa các tế bào. (Nguồn: Wiki)

Tiến sĩ Kelly Broga

Theo GreenMedInfo.com, vietdaikynguyen

Chuyên đề: , ,

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc